Lịch công giáo ngày 08-04-2024
Lễ Truyền Tin
Lễ trọng - Mùa Phục Sinh
Các bài đọc và tin mừng hôm nay
Cv 4:23-31; Tv 2:1-3,4-6,7-9; Ga 3:1-8
Áo Lễ Linh Mục: Trắng
Nhờ đọc và suy gẫm Lời Chúa, mà tâm hồn chúng ta được biến đổi và canh tân đời sống mới nơi chúng ta. Nhờ đọc và sống Lời Chúa hằng ngày, đời sống của chúng ta mới phát sinh những hoa trái thánh thiện, bác ái, phục vụ trong yêu thương và lòng nhiệt thành truyền giáo.
Hãy cùng đọc và suy niệm lời Chúa qua các bài đọc, tin mừng mỗi ngày!
LỜI CHÚA (BÀI ĐỌC & TIN MỪNG) - NGÀY 08/04/2024
Bài Ðọc I: Is 7, 10-14
“Này trinh nữ sẽ thụ thai”.
Trích sách Tiên tri Isaia.
Ngày ấy, Chúa phán bảo vua A-khát rằng: “Hãy xin Thiên Chúa, Chúa ngươi, một dấu ở dưới lòng đất hay ở trên trời cao!” Nhưng vua A-khát thưa: “Tôi sẽ không xin, vì tôi không dám thử Chúa”. Và I-sai-a nói: “Vậy nghe đây, hỡi nhà Ða-vít, làm phiền lòng người ta chưa đủ ư, mà còn muốn làm phiền lòng Thiên Chúa nữa? Vì thế chính Chúa sẽ cho các ngươi một dấu: này một trinh nữ sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và tên con trẻ sẽ gọi là Em-ma-nu-en, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta”.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 39, 7-8a. 8b-9. 10. 11
Ðáp: Lạy Chúa, này con xin đến để thực thi ý Chúa
1. Hy sinh và lễ vật thì Chúa chẳng ưng, nhưng Ngài đã mở tai con. Chúa không đòi hỏi lễ toàn thiêu và lễ đền tội, bấy giờ con đã thưa: “Này con xin đến”.
2. Như trong cuốn sách đã chép về con, lạy Chúa, con sung sướng thực thi ý Chúa, và luật pháp của Chúa ghi tận đáy lòng con.
3. Con đã loan truyền đức công minh Chúa trong đại hội, thực con đã chẳng ngậm môi, lạy Chúa, Chúa biết rồi.
4. Con chẳng có che đậy đức công minh Chúa trong lòng con; con đã kể ra lòng trung thành với ơn phù trợ Chúa; con đã không giấu giếm gì với đại hội về ân sủng và lòng trung thành của Chúa.
Bài Ðọc II: Dt 10, 4-10
“Ở đoạn đầu cuốn sách đã viết về tôi là, lạy Chúa, tôi thi hành thánh ý Chúa”.
Trích thư gửi tín hữu Do-thái.
Anh em thân mến, máu bò và dê đực không thể xoá được tội lỗi. Vì thế, khi đến trong thế gian, Chúa Giê-su phán: “Chúa đã không muốn hy tế và của lễ hiến dâng, nhưng đã tạo nên cho con một thể xác. Chúa không nhận của lễ toàn thiêu và của lễ đền tội. Nên con nói: Lạy Chúa, này con đến để thi hành thánh ý Chúa, như đã nói về con ở đoạn đầu cuốn sách. Sách ấy bắt đầu như thế này: Của lễ hy tế, của lễ hiến dâng, của lễ toàn thiêu và của lễ đền tội, Chúa không muốn cũng không nhận, mặc dầu được hiến dâng theo lề luật”. Ðoạn Người nói tiếp: “Lạy Chúa, này con đến để thi hành thánh ý Chúa”. Như thế đã bãi bỏ điều trước để thiết lập điều sau, chính bởi thánh ý đó mà chúng ta được thánh hoá nhờ việc hiến dâng Mình Chúa Giêsu Kitô một lần là đủ.
Ðó là lời Chúa.
Câu Xướng Trước Phúc Âm
Ngôi Lời đã hoá thành nhục thể, và Người đã cư ngụ giữa chúng ta, và chúng ta đã nhìn thấy vinh quang của Người. -Alleluia.
PHÚC ÂM: Lc 1, 26-38
“Này Bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai”.
Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo Thánh Lu-ca.
Khi ấy, thiên thần Gáp-ri-en được Chúa sai đến một thành xứ Ga-li-lê-a, tên là Na-da-rét, đến với một trinh nữ đã đính hôn với một người tên là Giuse, thuộc chi họ Ða-vít, trinh nữ ấy tên là Ma-ri-a. Thiên thần vào nhà trinh nữ và chào rằng: “Kính chào Bà đầy ơn phước, Thiên Chúa ở cùng Bà, Bà được chúc phúc giữa các người phụ nữ”. Nghe lời đó, Bà bối rối và tự hỏi lời chào đó có ý nghĩa gì.
Thiên thần liền thưa: “Ma-ri-a đừng sợ, vì đã được nghĩa với Chúa. Này Bà sẽ thụ thai, sinh một Con trai và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao trọng và được gọi là Con Ðấng Tối Cao. Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngôi báu Ða-vít tổ phụ Người. Người sẽ cai trị đời đời trong nhà Gia-cóp, và triều đại Người sẽ vô tận”.
Nhưng Maria thưa với thiên thần: “Việc đó xảy đến thế nào được, vì tôi không biết đến người nam?”
Thiên thần thưa: “Chúa Thánh Thần sẽ đến với Bà và uy quyền Ðấng Tối Cao sẽ bao trùm Bà. Vì thế Ðấng Bà sinh ra, sẽ là Ðấng Thánh và được gọi là Con Thiên Chúa. Và này, I-sa-ve chị họ Bà cũng đã thụ thai con trai trong lúc tuổi già và nay đã mang thai được sáu tháng, người mà thiên hạ họi là son sẻ; vì không có việc gì mà Chúa không làm được”. Ma-ri-a liền thưa: “Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Thiên thần truyền”. Và thiên thần cáo biệt Bà.
Ðó là lời Chúa.
SUY NIỆM LỜI CHÚA NGÀY 08/04/2024
Thứ hai tuần 2 ps
Lễ Truyền Tin
Lc 1,26-38
LUÔN SẴN SÀNG THƯA VÂNG
Bấy giờ bà Ma-ri-a nói: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói.” (Lc 1,38)
Suy niệm: Đức Mẹ đang làm gì khi sứ thần đến truyền tin? Các bộ phim về cuộc đời Chúa Giê-su đều thuật lại sự kiện này nhưng các giải đáp đưa ra thì không ai giống ai. Phim thì nói Mẹ đang cầu nguyện, phim khác dàn dựng mẹ đang dệt vải hay đi múc nước. Có phim lại mô tả thiên thần truyền tin cho Mẹ trong một đêm thanh vắng. Nhưng dù đặt trong hoàn cảnh nào, tất cả các bộ phim ấy đều đồng ý với thánh sử Lu-ca ở điểm này là Mẹ luôn sẵn sàng thưa “Vâng”. Lời thưa vâng của Mẹ đã được bao hàm trong thái độ cơ bản: “tôi đây là nữ tỳ của Chúa.” Nhờ chọn lựa một vị trí như thế, Mẹ mới có thể luôn sẵn sàng đáp lại: “Xin cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói.” Dù đang làm việc gì, Mẹ vẫn làm trong tư thế của người tôi trung của Đấng Tối Cao. Và Mẹ vẫn trung thành đứng trong tư thế này, cho đến tận dưới chân thập giá Chúa Ki-tô.
Mời Bạn: Như thế chúng ta có thể noi gương Mẹ: trước tiên chọn sống như người tôi trung của Chúa. Dù đang làm việc gì hay đang ở đâu, dù ở trong chức vụ, bậc sống hay hoàn cảnh nào, bổn phận người tôi trung vẫn là biết mau mắn nhận ra ý muốn của Chúa và cũng biết mau mắn thi hành.
Chia sẻ: Việc sống như người tôi trung của Chúa có nghịch với phẩm giá và tự do con người hay không?
Sống Lời Chúa: Thực hành bước cơ bản giúp nhận định thánh ý Chúa: xác định mình là tôi tớ Chúa, được sinh ra để làm vinh danh Chúa và để đạt tới ơn cứu độ.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin ban ơn trợ giúp, cho con dám khước từ ý riêng và lòng háo danh, để con liên lỉ tìm kiếm và thi hành thánh ý Chúa.
LẼ SỐNG TRONG LỜI CHÚA NGÀY 08/04/2024
08 Tháng Tư
Cái Này Của Tôi
Hai hiền nhân đã chung sống với nhau dưới một mái nhà trải qua nhiều năm tháng, nhưng không bao giờ họ lớn tiếng cãi vã nhau. Một hôm kia, một người có ý nghĩ ngộ nghĩnh. Ông bảo bạn:
"Ít ra là một lần, tôi muốn chúng ta phải cãi vã nhau, như chúng ta thấy thiên hạ thường làm".
Ông kia không khỏi ngạc nhiên về ý nghĩ kỳ lạ này, nhưng chiều bạn, ông ta hỡm hờ hỏi: "Cãi vã thế nào được, ít ra chúng ta phải tìm ra một việc gì chính đáng để cãi nhau chứ". Người có ý kiến phải cãi nhau đề nghị: "Này nhé, dễ lắm! Tôi để một viên đá ra giữa sân và quả quyết viên đá này là của tôi. Ông phải phùng mang trợn mắt, đỏ mặt tía tai và lớn tiếng cãi lại: làm gì có chuyện đó, viên gạch là của tôi. Rồi sau đó chúng ta cãi nhau".
Nói xong ông ta bèn ra đường và tìm một viên đá to, khệ nệ khiêng ra đặt ở giữa sân. Ông bạn kia bắt đầu ngay, ông ta lớn tiếng:
"Viên đá đó của tôi mà mắc mớ gì ông lại mang ra giữa sân". Ông kia cãi lại: "Viên đá này là của tôi. Tôi vừa tìm được ở ven đường. Bộ ông mù rồi sao mà không thấy?". Nghe nói thế, ông kia đáp:
"À phải rồi, viên đá đó ông tìm được thì đúng là của ông rồi. Vả lại tôi cũng không cần có đá để làm gì".
Nói xong, ông ta bỏ đi làm việc khác. Thế là ý định cãi nhau của hai người không được thành tựu như ý muốn.
Ngay từ thuở bập bẹ nói được, con người đã học câu "Cái này là của tôi" để thể hiện quyền làm chủ của mình. Quan sát các cuộc cãi nhau của trẻ con, chúng ta nghe thấy câu nói đó được lặp đi lặp lại nhiều nhất.
Rồi trong xã hội của những người lớn, dù có những cách nói hoa mỹ hay những lý luận có vẻ hợp lý hơn, nhưng chung quy phần lớn những mối bất hòa vẫn xoay xung quanh câu xác quyết "Cái này là của tôi".
Trẻ con tranh nhau hòn bi, trái banh. Người lớn giành nhau địa vị, lợi lộc. Quốc gia tranh nhau đất đai, hòn đảo, vùng ảnh hưởng, môi trường tiêu thụ.
Trẻ con dùng lời vã cãi nhau, dùng thoi đánh đấm nhau. Người lớn dùng bạo lực, thủ đoạn thanh toán nhau. Quốc gia dùng khí giới, bom đạn giết hại, tàn phá nhau.
Ngược lại bẩm tính thích tranh nhau chiếm hữu này, sứ điệp của Giáo Hội luôn vang lên hai tiếng: Chia sẻ.
Ở Hoa Kỳ, mỗi gia đình công giáo được phân phát một hộp giấy, để trong suốt Mùa Chay, mỗi phần tử trong gia đình bỏ vào đấy những đồng tiền tiết kiệm do bớt ăn, bớt uống, bớt chi tiền vào những việc giải trí. Cuối Mùa Chay, những số tiền dành dụm đó được đóng góp vào quỹ dành cho việc tài trợ những chương trình cứu tế xã hội trong và ngoài nước.
Trích sách Lẽ Sống
HẠNH CÁC THÁNH NGÀY 08/04/2024
8/4 – THÁNH JULIE BILLIART (1751-1816)
Sinh tại Cuvilly, Pháp, trong một gia đình nông dân khá giả, cô gái Marie Rose Julia Billiart đã sớm tỏ ra quan tâm tôn giáo, giúp đỡ người nghèo và bệnh nhân. Những năm đầu đời của bà tương đối bình an và không rắc rối, nhưng đến tuổi thiếu niên bà đã phải lao động chân tay vì gia đình không còn tiền bạc. Tuy nhiên, bà vẫn dành thời gian dạy giáo lý cho các bạn trẻ và nông dân. Bà bị một chứng bệnh kỳ lạ khi mới 30 tuổi. Chứng kiến người cha bị thương và chết, Julie chết điếng, rồi bà bị tê liệt và hoàn toàn tàn phế. 20 năm kế tiếp, bà vẫn dạy giáo lý dù nằm liệt, bà đưa ra những lời khuyên tâm linh và thu hút nhiều người đến vì nghe biết sự thánh thiện của bà.
Khi cuộc Cách Mạng Pháp bùng nổ năm 1789, quân cách mạng biết bà trung thành với các linh mục chạy trốn. Nhờ bạn bè giúp đỡ, bà được lén đưa ra khỏi Cuvilly trong chiếc xe bò chở cỏ. Bà trốn vài năm ở Compiegne, được chuyển từ nhà này sang nhà khác mặc dù đau nhức cơ thể, thậm chí có một thời gian bà không nói được.
Nhưng thời kỳ này cũng chứng tỏ hiệu quả tâm linh của bà. Lúc đó bà có thị kiến thấy các nữ tu bao quanh núi Can-vê và nghe được tiếng nói: “Hãy nhìn ngắm những nữ tử tâm linh này mà Ta giao cho con ở một dòng được đánh dấu bằng Thánh giá.” Khi thời gian qua đi, bà tiếp tục sống lưu động, bà quen một phụ nữ quý tộc tên là Francoise Blin de Bourdon, người đã chia sẻ mối quan tâm của Julie về việc dạy đức tin. Năm 1803, hai phụ nữ này lập Dòng Đức Bà (Institute of Notre Dame) chuyên giáo dục trẻ em nghèo, các em gái Kitô giáo và đào tạo giáo lý viên. Năm sau, các nữ tu đầu tiên của Dòng Đức Bà tuyên khấn. Cùng năm đó, Julie khỏi bệnh: Sau 22 năm tê liệt, bà lại có thể đi được.
Mặc dù bà luôn chú ý tới những nhu cầu đặc biệt của người nghèo và luôn duy trì quyền ưu tiên, bà cũng chú ý các tầng lớp khác trong xã hội cần được hướng dẫn về Kitô giáo. Từ khi thành lập Dòng Đức Bà đến khi qua đời, bà luôn đi đây đó, mở nhiều trường học ở Pháp và Bỉ để phục vụ cả người nghèo lẫn người giàu, mở các trường hướng nghiệp và đào tạo giáo viên. Cuối cùng, Julie và Francoise chuyển nhà mẹ tới Namur, Bỉ. Bà qua đời năm 1816, và được tuyên thánh năm 1969.
8/4
Thánh Julie Billiart
(1751 - 1816)
Sinh ở Cuvilly, nước Pháp, trong một gia đình nông dân trung lưu, ngay từ nhỏ Marie Rose Julie Billiart đã có lòng đạo hạnh và muốn giúp đỡ người nghèo. Mặc dù những năm niên thiếu thật êm đềm và thanh thản, nhưng khi lớn lên Julie đã phải làm việc lao động để giúp đỡ tài chánh cho gia đình. Tuy nhiên, cô vẫn dành thời giờ để dạy giáo lý cho các trẻ em và các nông dân.
Khoảng 20 tuổi, sau khi tận mắt chứng kiến cảnh kẻ thù địch muốn giết hại cha mình, cô Julie đã bị chấn động đến độ bất toại và tàn phế. Trong thời gian này, khi chịu lễ hàng ngày, cô luyện tập đời sống tâm linh và dành bốn đến năm giờ đồng hồ trong sự chiêm niệm. Trong vòng hai thập niên kế đó, dù phải liệt giường nhưng cô vẫn tiếp tục dạy giáo lý, khuyên bảo và thu hút nhiều người đến với cô vì nghe tiếng thánh thiện của cô.
Khi cuộc Cách Mạng Pháp bùng nổ năm 1789, cô Julie dùng nhà mình làm nơi ẩn náu cho các linh mục đang bị lùng bắt. Do đó, chính cô trở thành nạn nhân bị săn đuổi. Với sự giúp đỡ của bạn bè, cô ẩn trong chiếc xe bò chở rơm trốn đến Cuvilly; trong một vài năm kế tiếp cô trốn ở Compeigne, di chuyển từ nhà này sang nhà khác bất kể sự đau đớn về thể xác. Có lần cô đau đớn đến độ mất cả tiếng nói.
Nhưng giai đoạn này là thời gian phát triển đời sống tâm linh của Julie. Chính trong thời gian này cô được nhìn thấy Chúa Giêsu trên đồi Canvê mà bao quanh là các phụ nữ mặc áo dòng, và cô nghe có tiếng nói, "Ðây là những người con tinh thần mà Ta trao cho con trong một tổ chức có dấu thập giá." Thời gian trôi qua và Julie quen biết với một phụ nữ quý tộc, cô Francoise Blin de Bourdon, là người cùng chia sẻ việc dạy giáo lý với cô. Vào năm 1803, hai người bắt đầu thành lập một tổ chức lấy tên là Hội Dòng Ðức Bà Namur, để giáo dục người nghèo cũng như các thiếu nữ Công Giáo và huấn luyện giáo lý viên. Năm 1804, cô Julie được bình phục và có thể đi lại bình thường sau 22 năm tàn phế. Vào năm 1805, Julie và ba người bạn là các nữ tu đầu tiên của Hội Dòng Ðức Bà Namur khấn trọn. Sơ Julie được bầu làm Mẹ Bề Trên của tu hội trẻ trung này.
Mặc dù Sơ Julie luôn luôn chú ý đến nhu cầu của người nghèo và đó vẫn là điều tiên quyết, nhưng sơ nhận thấy những người thuộc giai cấp khác của xã hội cũng cần được học hỏi về giáo lý Công Giáo. Từ lúc thành lập tu hội Các Nữ Tu của Ðức Bà cho đến khi từ trần, Sơ Julie luôn luôn di chuyển để mở các trường học khác nhau ở Pháp và Bỉ để phục vụ người nghèo cũng như giầu. Sau cùng, Sơ Julie và Sơ Francoise di chuyển nhà mẹ đến Namur, nước Bỉ.
Sơ Julie từ trần năm 1816, và được Ðức Giáo Hoàng Phaolô VI phong thánh năm 1969.