“Còn bà Ma-ri-a thì hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy,
và suy đi nghĩ lại trong lòng”.
(Lc 2,19)
BÀI ĐỌC I: Ds 6, 22-27
“Họ sẽ kêu cầu danh Ta trên con cái Israel và Ta sẽ chúc lành cho chúng”
Trích sách Dân Số.
Chúa phán cùng Môsê rằng: “Hãy nói với Aaron và con cái nó rằng: Các ngươi hãy chúc lành cho con cái Israel; hãy nói với chúng thế này: ‘Xin Chúa chúc lành cho con, và gìn giữ con. Xin Chúa tỏ nhan thánh Chúa cho con, và thương xót con. Xin Chúa ghé mặt lại cùng con, và ban bằng yên cho con’. Họ sẽ kêu cầu danh Ta trên con cái Israel, và Ta sẽ chúc lành cho chúng”.
Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 66, 2-3. 5. 6 và 8
Đáp: Xin Thiên Chúa xót thương và ban phúc lành cho chúng con (c. 2a).
1) Xin Thiên Chúa xót thương và ban phúc lành cho chúng con; xin chiếu giãi trên chúng con ánh sáng tôn nhan Chúa, để trên địa cầu người ta nhìn biết đường lối của Ngài, cho chư dân thiên hạ được biết rõ ơn Ngài cứu độ. - Đáp.
2) Các dân tộc hãy vui mừng hoan hỉ, vì Ngài công bình cai trị chư dân, và Ngài cai quản các nước địa cầu. - Đáp.
3) Chư dân, hãy ca tụng Ngài; thân lạy Chúa, hết thảy chư dân hãy ca tụng Ngài! Xin Thiên Chúa ban phúc lành cho chúng con, và cho khắp cùng bờ cõi trái đất kính sợ Ngài. - Đáp.
BÀI ĐỌC II: Gl 4, 4-7
“Thiên Chúa đã sai Con Ngài sinh hạ bởi người phụ nữ”.
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Galata.
Anh em thân mến, khi đã tới lúc thời gian viên mãn, Thiên Chúa đã sai Con Ngài sinh hạ bởi người phụ nữ, sinh dưới chế độ Luật, để cứu chuộc những người ở dưới chế độ Luật, hầu cho chúng ta được nhận làm dưỡng tử. Sở dĩ vì anh em được làm con, Thiên Chúa đã sai Thần Trí của Con Ngài vào tâm hồn chúng ta, kêu lên rằng: “Abba!”, nghĩa là “Lạy Cha!” Thế nên, bạn không còn phải là tôi tớ, nhưng là con; mà nếu là con, tất bạn cũng là người thừa kế, nhờ ơn Thiên Chúa.
Đó là lời Chúa.
Tin mừng: Lc 2, 16-21
16 Họ liền hối hả ra đi. Đến nơi, họ gặp bà Ma-ri-a, ông Giu-se, cùng với Hài Nhi đặt nằm trong máng cỏ. 17 Thấy thế, họ liền kể lại điều đã được nói với họ về Hài Nhi này. 18 Nghe các người chăn chiên thuật chuyện, ai cũng ngạc nhiên. 19 Còn bà Ma-ri-a thì hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng.
20 Rồi các người chăn chiên ra về, vừa đi vừa tôn vinh ca tụng Thiên Chúa, vì mọi điều họ đã được mắt thấy tai nghe, đúng như đã được nói với họ.
21 Khi Hài Nhi được đủ tám ngày, nghĩa là đến lúc phải làm lễ cắt bì, người ta đặt tên cho Hài Nhi là Giê-su; đó là tên mà sứ thần đã đặt cho Người trước khi Người được thụ thai trong lòng mẹ.
1. Suy niệm (TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa làm người sinh bởi Mẹ Maria. Con của Đức Mẹ là Thiên Chúa, nên Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa. Cùng với Đức Mẹ, ta suy niệm, chiêm ngắm, thờ lạy và đón nhận mầu nhiệm Nhập thể.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, Chúa là Con Thiên Chúa nhưng Chúa chẳng nề quản làm người con bé nhỏ trong tay Mẹ Maria. Chúa được Đức mẹ sinh hạ, nuôi nấng, dạy dỗ. Chúa đã lớn lên nhờ sự giáo dục và bàn tay chăm sóc của Đức Mẹ. Con hiểu sứ mạng của Đức Mẹ thật là cao cả và nặng nề. Không những Đức Mẹ nuôi nấng Chúa về phần xác, dạy dỗ Chúa về đời sống tinh thần, chỉ bảo Chúa về cách sống ở đời, nhưng khó khăn nhất là ở chỗ Đức Mẹ phải nuôi dạy Chúa thế nào cho xứng với phẩm giá của Chúa là Đấng Cứu Thế, là Con Thiên Chúa. Dù khó khăn vượt quá sức Mẹ, nhưng Mẹ đã suy nghĩ, cầu nguyện, và với ơn Chúa, Mẹ đã chu toàn sứ mạng cao cả ấy.
Lạy Chúa, xin cho con được hưởng nhờ tình yêu thương từ mẫu và sự chăm sóc của Mẹ Maria, để con được sống bằng an trong năm mới này, để con trưởng thành trong đời sống làm người với những đức tính tốt, và nhất là để con biết sống xứng đáng với ơn gọi làm con Thiên Chúa.
Hôm nay con nhớ tới các người mẹ. Có những bà mẹ sống ích kỷ, bỏ bê con cái. Có những bà mẹ chỉ lo cho con cái về phần xác. Xin Chúa giúp cho các người mẹ ý thức bổn phận lo cho con cái về mọi phương diện, giáo dục con cái nên người và nên con Thiên Chúa. Con cái ngày nay gây ra cho cha mẹ nhiều khó khăn trong việc giáo dục. Xin Chúa giúp các bậc phụ huynh chu toàn trọng trách này theo gương Mẹ Maria. Amen.
Ghi nhớ: “Họ đã gặp thấy Maria, Giuse và hài nhi... và tám ngày sau người ta gọi tên Người là Giêsu”.
2. Suy niệm (Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)
Đây là một thánh lễ có từ lâu đời, nên mang nhiều ý nghĩa:
1. Thánh lễ đầu năm dương lịch
2. Kính thánh Danh Chúa Giêsu
3. Cầu cho hòa bình thế giới
4. Kính Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa.
1. Thánh lễ đầu năm dương lịch
Hội Thánh mượn lời sách Dân số 6, 22-27 để xin Thiên Chúa chúc lành cho cả nhân loại trong năm mới: “Chúa phán cùng Môsê rằng: Hãy nói với Aaron và con cái nó rằng: các ngươi hãy chúc lành cho con cái Ít-ra-en ; hãy nói với chúng thế này: Xin Chúa chúc lành cho con và gìn giữ con. Xin Chúa tỏ Nhan Thánh Chúa cho con và thương xót con. Họ sẽ kêu cầu Danh Ta trên con cái Ít-ra-en, và ta sẽ chúc lành cho chúng. Xin Chúa ghé mặt lại cùng con và ban bằng yên cho con.”
“Xin Chúa tỏ Thánh Nhan”, có nghĩa là:
- Xin Người tha thứ, đừng giận, đừng che mặt trước loài người, đừng để con người phải lẻ loi đương đầu với tất cả sự ác trên thế giới.
- Xin người ban sự hiện diện của Người cho nhân loại, có nghĩa là con người xin được giao hoà, được sống dưới sự che chở, dưới lòng nhân từ của Thiên Chúa.
- Xin Người ban cho nhân loại sự hiệp thông với Người trong cả cuộc sống.
Đó là sự chúc lành cao cả nhất của Thiên Chúa ban cho nhân loại.
2. Lễ đặt tên
Hôm nay cũng là bát nhật lễ Giáng sinh. Hội Thánh nhớ đến phong tục do thái: tám ngày sau khi được sinh ra, các bé trai do thái sẽ được cắt bì và đặt tên: “Khi Hài nhi được đủ 8 ngày, nghĩa là đến lúc phải làm lễ cắt bì, người ta đặt tên cho Hài nhi là Giêsu ; đó là tên mà sứ thần đã đặt, trước khi Hài nhi thành thai trong lòng mẹ” (Lc 2,21)
Danh Thánh Giêsu, theo nghĩa do thái là “Yavê là sự cứu độ”. Hài nhi được đặt tên Giêsu. Còn chúng ta, khi lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy, cũng được đóng ấn trong danh Đức Giêsu.
Ngày đầu năm, Hội Thánh nói lên khát vọng của mình: không phải chỉ những tín hữu mới mang danh thánh Giêsu ; nhưng ước gì mọi người, cũng như muôn loài muôn vật cũng đều được đóng ấn trong Danh Thánh này. Lúc ấy ơn cứu độ mới được hoàn tất: “Người cho ta biết thiên ý nhiệm mầu: Thiên ý này là kế hoạch yêu thương Người đã định từ trước trong Đức Kitô. Đó là đưa thời gian tới hồi viên mãn, là quy tụ muôn loài trong trời đất dưới quyền một Thủ Lãnh là Đức Kitô” (Ep 1,9-10)
3. Ngày cầu nguyện cho hòa bình thế giời
Khi các thiên sứ từ biệt mấy người chăn chiên để về trời, những người này bảo nhau rằng: “Nào chúng ta sang Bêlem để xem sự việc đã xảy ra như Chúa đã tỏ cho ta biết”. Họ liền hói hả ra đi. Đến nơi, họ gặp Bà Maria, ông Giuse, cùng với Hài nhi đặt nằm trong máng cỏ. Thấy thế, họ liền kể lại điều đã được nói với họ về Hài nhi này” (Lc 2,15-17)
Hài nhi này là ai ? Là Cứu Chúa, là Vua Hòa bình. Chính vì Người sinh ra mà “có muôn vàn thiên binh hợp với sứ thần cất tiếng ngợi khen Thiên Chúa rằng: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương” (Lc 2,13-14)
Vị Vua Hòa bình đã xuất hiện. Xin bình an của Người đổ tràn trên thế giới còn đầy dẫy chiến tranh, nghèo đói, bệnh tật, thất học, đầy bạo lực và bất công ; một thế giới đang nằm trên những kho vũ khí hạt nhân, bất cứ lúc nào cũng có thể huỷ diệt toàn thể nhân loại và trái đất này.
4. Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa
Con Thiên Chúa đã nhập thể làm người và trở thành anh em của loài người. Trong Người, chúng ta được trở thành con của Thiên Chúa và là anh em của nhau. Trong bí tích Rửa tội, chúng ta nhận Thần Khí của Người Con chí ái và với niềm tin tưởng, chúng ta gọi Thiên Chúa là Cha. Đó là mầu nhiệm giáng sinh cho nhân loại.
Ngày hôm nay, với sự trìu mến, Hội Thánh ngắm nhìn Người Phụ Nữ được tuyển chọn làm Mẹ Đấng Cứu Thế. Nếu không có tiếng “Xin vâng” của người Trinh nữ này, sẽ không có mầu nhiệm Thập giá (Lm Nguyễn văn Trinh, Phụng vụ chư thánh)
A. Hạt giống…
Bài Tin Mừng này trình bày 2 thái độ khác hẳn nhau: a/ Thái độ của những người chăn chiên là tíu tít kể chuyện ; b/ Thái độ của Đức Maria là ghi nhớ mọi sự và suy niệm trong lòng.
B. Nẩy mầm…
1. “Đức Maria đã thinh lặng không chỉ lúc này, nhưng trong suốt cuộc đời Người. Được làm Mẹ Thiên Chúa, nhưng chung quanh Người chẳng có mấy ai biết đến tước hiệu này... Tại Cana, Người đã nhẹ nhàng báo cho Chúa Giêsu biết bữa tiệc không còn rượu nữa. Trong cuộc đời công khai của Chúa, Người đã âm thầm theo bước chân Con. Và bên Thánh giá, trong nỗi đau đớn tột cùng, Người đã chứng kiến những giờ phút cuối cùng của Con. Có thể nói Người đã sống tâm tình của một nữ tì khiêm tốn. Người chỉ muốn phục vụ trong âm thầm, còn vinh quang danh dự thì Người xin dành cho người khác. Trong một thế giới có quá nhiều tiếng động: tiếng động của bom đạn, của tranh chấp, của bạo lực, chúng ta hãy bắt chước thái độ thinh lặng và lắng nghe của Đức Maria, nhờ đó chúng ta sẽ tìm được bình an trong tâm hồn và tạo được hòa khí trong tương quan với tha nhân” (Trích "Mỗi ngày một tin vui").
2. Thánh Luca khám phá đặc điểm của Mẹ Thiên Chúa là “ghi nhớ những kỷ niệm đó và suy đi nghĩ lại trong lòng”. Tuy là mẹ của Chúa Giêsu nhưng ban đầu Đức Mẹ không hiểu hết về con mình. Tuy không hiểu nhưng nhờ “ghi nhớ và suy đi nghĩ lại” nên sau cùng Mẹ đã rất hiểu Ngài. Huống chi chúng ta: chúng ta là môn đệ Chúa, là con Chúa, chúng ta càng cần phải ghi nhớ và suy đi nghĩ lại những kỷ niệm về Chúa thì mới hiểu được Ngài.
3. Một bài hát kia có một tựa đề rất gợi ý, là “The sound of silent”, tiếng của thinh lặng. Phải, thinh lặng nói với ta rất nhiều điều. Ta thử thinh lặng để “suy đi nghĩ lại” về những sự việc chung quanh việc Chúa Giáng sinh, để coi xem ta nghe được gì.
4. Một người da đỏ cùng đi với một người da trắng trên đường. Người da đỏ bỗng vỗ vai người da trắng, hỏi
- Anh có nghe gì không ?
Người da trắng hết sức lóng tai nghe, rồi đáp
- Tôi chẳng nghe gì cả.
- Có mà, tôi nghe tiếng một con dế gáy.
- Làm gì mà có con dế nào giữa đường phố nhộn nhịp như thế này ? Mà cho dù có đi nữa thì làm sao anh nghe được tiếng nó giữa bao tiếng ồn ào của xe cộ và người qua kẻ lại ?
Người da đỏ không thèm trả lời. Anh đi đến một bức tường bên vệ đường. Bức tường đã cũ. Nhiều dây leo chằng chịt trên đó. Anh vạch đám dây leo sang một bên. Một lỗ trống hiện ra, trong đó rõ ràng có một con dế đang gáy.
Người da trắng thán phục:
- Dân da đỏ các anh có lỗ tai thính hơn dân da trắng chúng tôi nhiều.
- Không phải thế đâu. Để tôi thử cái này cho anh xem.
Người da đỏ lấy trong túi ra một đồng tiền kẽm, thảy xuống mặt đường. Tiếng đồng tiền lăn leng keng khiến mọi người đi đường ngoái đầu nhìn lại. Liền đó người da đỏ giải thích:
- Tiếng của đồng tiền kẽm nhỏ hơn tiếng dế kêu rất nhiều. Thế mà mọi người da trắng đều nghe được. Còn tiếng con dế lớn hơn nhưng chỉ có tôi nghe được. Không phải ai thính tai hơn ai cả. Sự thực chính là chúng ta chỉ nghe được tiếng của những thứ chúng ta thường quan tâm để ý (Willi Hoffsemmer).
5. “Họ liền hối hả ra đi. Đến nơi, họ gặp bà Maria, ông Giuse, cùng với Hài nhi đặt nằm trong máng cỏ” (Lc 2,16)
Một buổi sáng Chúa nhật, ngày đẹp nhất trong tuần, tôi đến nhà thờ dự lễ và ngao ngán với một bài giảng quá dài lại chẳng có gì hấp dẫn… Chúa nhật sau, anh hẹn đưa tôi đi chơi. Tôi náo nức chờ đợi từng phút giây, mong tới giờ hẹn. Và chúng ta đã lên đường… bỏ lại đàng sau không buồn luyến tiếc: ngôi thánh đường và cả Chúa Giêsu nữa!
Tôi là thế đó, chỉ muốn làm những gì mình thích và thích làm những điều thật vĩ đại. Còn Mẹ Maria thì chọn những gì Chúa muốn và để cho Ngài làm nên những điều cao cả. Nếu như Thiên Chúa cần một người mẹ cho Ngôi Lời nhập thể thì Mẹ đã cất tiếng xin vâng để trần gian được cứu độ. Và trong nữ giới, Mẹ thành người diễm phúc nhất.
Cầu nguyện: Lạy Mẹ Maria, Mẹ đã chọn phần tuyệt hảo là lắng nghe và tuân giữ lời Chúa. Xin cho con hằng noi gương Mẹ mà gắn bó cùng Chúa trọn đời. (Epphata)
3. Suy niệm (Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)
THÁNH MARIA, MẸ THIÊN CHÚA (Lc 2,16-21)
CẦN THIẾT CÓ MỘT NGƯỜI MẸ
Con chim nó hót trên cao
Nếu không có mẹ làm sao có mình ?
Con chim nó hót trên cành
Nếu không có mẹ thì mình làm sao ? (Ca dao)
Câu đố nói lên một cách thống thiết con người cần phải có cha có mẹ vì “Không ai ở chỗ nẻ chui lên”. Đó là nguồn cội của con người. Chim có tổ, nước có nguồn, con người phải có tổ ấm, phải có gia đình.
Chúa Giêsu khi bước xuống trần gian này cũng không muốn sống ngoài định luật của con người. Ngài cũng có mẹ có cha. Đó là tính cách rất người của Chúa Giêsu. Chúa không muốn trở thành một vị tiên giáng trần hay một Phù Đổng Thiên Vương vươn vai rồi lớn lên hay như một vị khác thường từ trời giáng thế. Chúa đã chọn con đường bình thường như mọi người là có một gia đình để sinh ra. Đức Maria chính là người đã sinh ra Chúa Giêsu.
Kinh thánh Tân ước đã chứng minh Đức Maria là Mẹ của Chúa Giêsu trong nhiều trường hợp:
- Trong Tin mừng thánh lễ hôm nay, thánh Luca đã viết: “Các mục đồng liền hối hả ra đi. Đến nơi, họ gặp bà Maria, ông Giuse, cùng với Hài nhi đặt nằm trong máng cỏ” (Lc 2,16). Đó là gia đình của Chúa Giêsu mà bà Maria là thân mẫu và ông Giuse là cha nuôi Ngài.
- Khi đến truyền tin, sứ thần Gabriel đã báo cho Đức Maria biết Ngài sẽ là Mẹ Thiên Chúa: “Trinh nữ sẽ thụ thai và sinh con trai, tên Ngài là Giêsu… Ngài sẽ là Con Đấng cao cả… và là Con Thiên Chúa” (Lc 1,31,35-36).
- Trong dịp đi thăm viếng bà chị họ Elisabeth, Thiên Chúa lại công bố việc Ngài chọn Đức Maria làm Mẹ. Khi hai chị em gặp nhau, đột nhiên bà Elisabeth tự động nói một câu lạ tai, nếu không dám nói là bạo miệng:“Bởi đâu tôi được Mẹ Thiên Chúa đến thăm tôi” (Lc 1,43). Chúng ta không thắc mắc về câu nói đó, vì đã có thánh Luca giải thích: “Bà được đầy Thánh linh soi sáng” (Lc 1,41).
- Trong dịp đi lễ đền thờ Giêrusalem, hai ông bà lạc mất con, sau ba ngày trở lại đền thờ thấy Chúa Giêsu đang ngồi giữa các thầy dạy, đàm đạo với họ. Đức Maria vừa vui mừng vừa mắng yêu con: “Con ơi, sao con lại xử với cha mẹ con như vậy ? Con không thấy, cha con và mẹ đây đã phải cực nhọc tìm con ?” (Lc 2,48)
Như vậy, sứ thần Gabriel - Thánh Linh - bà Elisabeth - Đức Mẹ nói rõ ra chưa đủ, Chúa Giêsu còn bổ khuyết: “Sao cha mẹ lại tìm con ? Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà Cha con sao ?” (Lc 2,49)
Cha của con ở đây là ai ? Dĩ nhiên không phải thánh Giuse, vì thánh Giuse đang đi tìm Chúa, nên phải hiểu “Cha của con”, Chúa nói đây là Thiên Chúa Cha - Cha của Ngài. Do đó, việc Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa lại càng sáng tỏ hơn nữa.
ĐỨC MARIA LÀ MẸ THIÊN CHÚA
Xưa nay mọi người vẫn tuyên xưng Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa, vì chúng ta lý luận rằng: gọi là mẹ những người đàn bà đã thật sự sinh con. Bà Maria đã thực sự sinh con là Chúa Giêsu. Mà Chúa Giêsu theo các chứng đã nêu trên là Con Thiên Chúa và là chính Thiên Chúa thật “Cha Ta và Ta là một” (Ga 10,30; 17,11.22). Cho nên bà Maria là Mẹ Thiên Chúa.
Tước hiệu “Đức Maria Mẹ Thiên Chúa” là một tước hiệu đã có từ lâu đời trong Giáo hội. Nhưng tước hiệu “Mẹ Thiên Chúa” không có trong bản văn Tân ước. Tước hiệu này được đề cập lần đầu tiên trong tài liệu của thánh Hippolytô (+235) ở Rôma. Sau đó thượng phụ giáo chủ Constantinople là Nestoriô (428) dựa trên quan điểm Kitô học riêng của mình đã phản đối việc xưng tụng Đức Maria dưới tước hiệu này.
Theo Nestôriô, chỉ nên gọi Maria là Mẹ Đức Giêsu Kitô, chứ không được gọi là Mẹ Thiên Chúa, vì theo ông, Con Thiên Chúa là một hữu thể, con Đức Maria là một hữu thể khác, vì ông cho rằng: Chúa Kitô có hai ngôi vị, đó là ngôi vị Thiên Chúa (Ngôi Lời) và ngôi vị con người (Giêsu). Như thế, Đức Maria không thể được gọi là “Theotokos” (Mẹ Thiên Chúa) ít nhất là theo ý nghĩa thực của hành vi ngôi hiệp (hợp nhất bản tính Thiên Chúa và bản tính nhân loại trong một ngôi vị duy nhất của Chúa Kitô).
Thế nên, vào năm 431, Giáo hội đã triệu tập Công đồng Êphêsô dưới sự chủ toạ của thánh Cyrillô, các nghị phụ trong công đồng này đã tuyên bố cách chức giáo chủ Nestôriô và đánh đổ lạc thuyết của ông ta. Công đồng đã định tín Maria là Mẹ Thiên Chúa, vì thực sự Mẹ đã sinh ra Con-Thiên-Chúa-Làm-Người. Từ công đồng Êphêsô, tước hiệu Maria Mẹ Thiên Chúa đã trở thành tước hiệu chính thức của Đức trinh Nữ Maria. Từ công đồng này, chúng ta có phần sau của kinh Kính Mừng: “Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội khi nay và trong giờ lâm tử. Amen”.
Công đồng Vatican II cũng tái xác quyết địa vị Mẹ Thiên Chúa: “Đức trinh nữ Maria đã đón nhận Ngôi Lời Thiên Chúa trong tâm hồn và thân xác, và đem sự sống đến cho thế gian. Ngài được công nhận và tôn kính là Mẹ thật của Thiên Chúa” (Lumen gentium, số 53).
Truyện: Mẹ Tổng thống
Ngày 20.01.1961 John Kennedy Tổng thống thứ 35 của Hoa kỳ, một người Công giáo đầu tiên giữ chức vụ chóp bu. Trong ngày nhậm chức, có mặt tất cả dòng họ Kennedy, cùng bà mẹ đứng một chỗ danh dự. Vào lúc John Kennedy thề nhậm chức và trở thành Tổng thống thì Rosa Kennedy trở thành mẹ của Tổng thống.
Khi bà sinh John vào năm 1917, bà đã cho đất nước Hoa Kỳ một con người mà sau này làm Tổng thống. Bà không sinh ra một con người Tổng thống. Nhưng thực sự và đúng là mẹ của một Tổng thống.
Một cách tương tự, nhưng không y hệt như thế, chúng ta xưng tụng Đức Nữ Đồng trinh là Mẹ Thiên Chúa, Mẹ đã sinh ra Chúa Giêsu Kitô Đấng vừa là Thiên Chúa vừa là người. Đức Maria không sinh ra Chúa là Chúa, Đức Maria cũng không phải là Chúa hay Bà Chúa. Mẹ là một con người có hạn, được vinh dự dâng hiến bản tính nhân loại cho Ngôi Con trong Ba Ngôi Thiên Chúa. Qua Mẹ, Đức Giêsu là một người thật và cũng là Thiên Chúa thật. Đó là chân lý chúng ta mừng lễ hôm nay. Ngày đầu năm dương lịch (Gm. Arthur Tonne).
Đức Maria là Mẹ Đức Giêsu vì đã sinh ra Ngài đúng nghĩa, chúng ta cũng là con cái Mẹ Maria theo nghĩa thiêng liêng và trở nên anh em với Chúa Giêsu. Chúng ta không còn phải mồ côi, vì đã có người Mẹ yêu thương và săn sóc dìu dắt. Phúc cho những người con nào có mẹ. Thật hạnh phúc cho chúng ta khi chúng ta có thể mở miệng ra kêu: “Mẹ ơi”, như lời ca trong ca khúc “Bông hồng cài áo” của nhạc sĩ Phạm Thế Mỹ: “Một bông hồng cho anh, một bông hồng cho em, một bông hồng cho những ai đang còn mẹ… Thì xin em hãy cùng tôi vui sướng lên, hãy cùng tôi vui sướng lên…”.
Nếu chúng ta đang tìm cho mình một hướng đi trong năm mới, thiết tưởng không một hướng đi nào vừa bảo đảm lại vừa tốt đẹp cho bằng hãy chạy đến với Đức Maria. Với chức vụ làm Mẹ Thiên Chúa, Mẹ có đủ khả năng để bầu cử và giúp đỡ chúng ta. Với địa vị là mẹ chúng ta, Mẹ có đủ tình thương để sẵn sàng thực hiện những điều chúng ta van xin, vì vậy chúng ta hay thường đọc:
Xưa nay chưa từng nghe có người nào chạy đến kêu xin cùng Mẹ mà Mẹ chẳng nhận lời (Kinh Hãy nhớ). Hay như thánh Bênađô đã bảo: “Kêu xin Mẹ, chúng ta sẽ không bao giờ lầm đường lạc lối”.
ĐỨC MARIA, NỮ VƯƠNG HOÀ BÌNH
Hôm nay, các mục đồng lại kể thêm về các lời của thiên sứ. Hài nhi trong máng cỏ là Đấng Cứu Thế, các thiên thần đã xướng ca: Vinh danh Thiên Chúa trên trời
Bình an dưới thế cho loài người Chúa thương.
Như vậy, Giêsu, Con của Đức Maria thực hiện lời tiên tri hứa cùng nhà Đavít. Ngài sẽ đem lại hoà bình cho Dân Chúa và vinh quang cho Thiên Chúa. Đức Maria hôm nay gẫm suy những điều ấy. Đấng Cứu Thế đem lại hoà bình, Ngài là Hoàng tử hòa bình, là Vua hòa bình.
Ý thức được quyền uy cao cả của Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa, Giáo hội luôn kêu xin Mẹ cầu bầu cùng Chúa Giêsu Hài đồng, Con Mẹ ban cho thế giới được bình an trong năm mới.
Chính Đức Giáo hoàng Phaolô VI đã đặt ngày 1/1 dương lịch hàng năm làm ngày cầu cho hòa bình thế giới. Ngài viết trong tông huấn Marialis Cultus như sau: “Khi canh tân mùa Giáng Sinh, mọi người phải chú ý đến việc tái lập lễ Đức Maria Mẹ Thiên Chúa vào ngày 1/1 đúng Phụng vụ Rôma từ xưa, nhằm tôn kính địa vị đặc biệt của Mẹ, Đấng tiếp nhận nguồn gốc là Đức Giêsu. Lễ này là dịp rất tốt để chúng ta tôn thờ Vua hoà bình mới sinh ra và nghe lại lời chúc hoà bình của các thiên sứ và cũng để cầu Chúa Hài nhi, nhờ sự can thiệp của Nữ Vương Hoà Bình ban cho chúng ta ơn cao cả nhất là ơn hoà bình” (Marialis Cultus, số 5).
Hoà bình không những là khát vọng của mỗi người mà còn là ước vọng của cả nhân loại. Hoà bình là quà tặng quý giá nhất Thiên Chúa ban cho nhân loại: “Thầy để bình anh cho các con, Thầy ban bình an của Thầy cho các con” (Ga 14,27). Hoà bình khởi đi trong tâm hồn. Con Thiên Chúa đã ban cho nhân loại sự bình an đích thực.
Hoà bình không phải chỉ là chấm dứt chiến tranh. Hoà bình còn là xây dựng bình đẳng, ấm no, thịnh vượng, hạnh phúc nữa. Phần tích cực có thể nói còn giấu nhiều mặt hơn tiêu cực. Hết chiến tranh cũng chưa phải là đã hết những hậu quả của chiến tranh là những thương tích, đổ vỡ vật chất và tinh thần. Chúng ta phải cải tạo cái cũ, xây dựng cái mới. Hoà bình hạnh phúc phải là khí thở của mọi người trên thế giới này.
Chúng ta đóng góp được những gì ? Kể từ khi Đức Giáo hoàng Phaolô VI chọn ngày 1/1 làm ngày thế giới hoà bình lần đầu tiên trở đi, mỗi năm các Đức Giáo hoàng chọn cho ngày đó một chủ đề về hoà bình để mọi người suy niệm, học hỏi, thực hành, như năm 2008, Đức Bênêđictô XVI đã lấy đề tài: Bài trừ đói nghèo, xây dựng hoà bình./Đức Giáo hoàng kêu gọi phải chiến đấu chống lại sự nghèo đói. Cuộc chiến này phải được mọi người tiếp tay, phải được cả thế giới quyết tâm cao. Các nước giàu phải có bổn phận giúp đỡ nước nghèo. Người giàu có phải giúp đỡ người nghèo. Nhưng trong thực tế, người ta ích kỷ không muốn chia sẻ cho nhau. Chỉ khi con người biết yêu thương nhau, quảng đại chia sẻ giúp đỡ nhau, giảm bớt chi tiêu lãng phí để giúp đỡ kẻ khác thì mới bớt sự nghèo khó và mới có sự bình an trong cuộc sống. Thánh Têrêsa Calcutta nói: “Chỉ khi con người biết chia sẻ cho nhau, thì mới hết cảnh đói nghèo”.
Yêu hoà bình thì phải xây dựng công bằng, bác ái, phải kiến tạo bình đẳng, ấm no, thịnh vượng, hạnh phúc. Hoà bình đòi phải phấn đấu và đấu tranh, để tiêu diệt cái xấu và phát triển cái tốt. Rất nhiều công tác cụ thể đang ở tầm tay mỗi người chúng ta. Hết thảy chúng ta hãy tích cực, để không chỉ nói hòa bình, nhưng muốn xây dựng hoà bình.
Trong ngày lễ Mẹ Thiên Chúa và cầu cho hòa bình thế giới hôm nay, chúng ta xin Đức Mẹ là Nữ Vương Hoà Bình ban cho chúng ta , cho các gia đình, cho cộng đoàn giáo xứ, nền hoà bình của Chúa Kitô - Hoà bình mà Đấng Cứu Thế, Con của Mẹ Maria đã đem xuống trần gian cho mọi người trong đêm Giáng sinh, để chúng ta biết sống hòa thuận thương yêu nhau, đoàn kết xây dựng hòa bình trên quê hương đất nước và trên toàn thế giới hôm nay.
Lạy Hoàng Tử Hòa Bình vừa hạ sinh, nhờ sự can thiệp của Nữ Vương Hoà Bình, xin ban cho nhân loại được hưởng niềm hoà bình viên mãn và tuôn tràn nguồn an bình đích thực xuống trong mỗi tâm hồn chúng con. Amen.