Những gì ngươi sắm sẵn đó sẽ về tay ai?
Bài đọc 1: Gv 1, 2; 2, 21-23
Chuyện gì xảy ra cho con người sau bao mối bận tâm và bao gian lao vất vả nó phải chịu dưới ánh mặt trời?
Bài trích sách Giảng viên.
1 2 Ông Cô-he-lét nói: “Phù vân, quả là phù vân. Phù vân, quả là phù vân. Tất cả chỉ là phù vân.
2 21 “Quả thế, có người đã đem hết khôn ngoan và hiểu biết mà làm việc vất vả mới thành công, rồi lại phải trao sự nghiệp của mình cho một người đã không vất vả gì hết. Điều ấy cũng chỉ là phù vân và lại là đại hoạ. 22 Chuyện gì xảy ra cho con người sau bao mối bận tâm và bao gian lao vất vả nó phải chịu dưới ánh mặt trời?
23 “Phải, đối với con người ấy, trọn cuộc đời chỉ là đau khổ, bao công khó chỉ đem lại ưu phiền! Ngay cả ban đêm, nó cũng không được yên lòng yên trí. Điều ấy cũng chỉ là phù vân!”
Đáp ca: Tv 89, 3-4.5-6.12-13.14 và 17 (Đ. c.1)
Đ.Lạy Chúa, trải qua bao thế hệ,
Ngài vẫn là nơi chúng con trú ẩn.
3Chúa bắt phàm nhân trở về cát bụi,
Ngài phán bảo: “Hỡi người trần thế, trở về cát bụi đi!”4Ngàn năm Chúa kể là gì,
tựa hôm qua đã qua đi mất rồi,
khác nào một trống canh thôi!
Đ.Lạy Chúa, trải qua bao thế hệ,
Ngài vẫn là nơi chúng con trú ẩn.
5Ngài cuốn đi, chúng chỉ là giấc mộng,
như cỏ đồng trổi mọc ban mai, 6nở hoa vươn mạnh sớm ngày,
chiều về ủ rũ tàn phai chẳng còn.
Đ.Lạy Chúa, trải qua bao thế hệ,
Ngài vẫn là nơi chúng con trú ẩn.
12Xin dạy chúng con đếm tháng ngày mình sống,
ngõ hầu tâm trí được khôn ngoan.13Lạy Chúa, xin trở lại! Ngài đợi đến bao giờ?
Xin chạnh lòng thương xót những tôi tớ Ngài đây.
Đ.Lạy Chúa, trải qua bao thế hệ,
Ngài vẫn là nơi chúng con trú ẩn.
14Từ buổi mai, xin cho đoàn con được no say tình Chúa,
để ngày ngày được hớn hở vui ca.17Xin cho chúng con được vui hưởng
lòng nhân hậu của Chúa là Thiên Chúa chúng con.
Việc tay chúng con làm, xin Ngài củng cố,
xin củng cố việc tay chúng con làm.
Đ.Lạy Chúa, trải qua bao thế hệ,
Ngài vẫn là nơi chúng con trú ẩn.
Bài đọc 2: Cl 3, 1-5.9-11
Anh em hãy tìm kiếm những gì thuộc thượng giới, nơi Đức Ki-tô đang ngự.
Bài trích thư của thánh Phao-lô tông đồ gửi tín hữu Cô-lô-xê.
1 Thưa anh em, anh em đã được trỗi dậy cùng với Đức Ki-tô, nên hãy tìm kiếm những gì thuộc thượng giới, nơi Đức Ki-tô đang ngự bên hữu Thiên Chúa. 2 Anh em hãy hướng lòng trí về những gì thuộc thượng giới, chứ đừng chú tâm vào những gì thuộc hạ giới. 3 Thật vậy, anh em đã chết, và sự sống mới của anh em hiện đang tiềm tàng với Đức Ki-tô nơi Thiên Chúa. 4 Khi Đức Ki-tô, nguồn sống của chúng ta xuất hiện, anh em sẽ được xuất hiện với Người, và cùng Người hưởng phúc vinh quang.
5 Vậy anh em hãy giết chết những gì thuộc về hạ giới trong con người anh em: ấy là gian dâm, ô uế, đam mê, ước muốn xấu và tham lam; mà tham lam cũng là thờ ngẫu tượng.
9 Anh em đừng nói dối nhau, vì anh em đã cởi bỏ con người cũ với những hành vi của nó rồi, 10 và anh em đã mặc lấy con người mới, con người hằng được đổi mới theo hình ảnh Đấng Tạo Hoá, để được ơn thông hiểu. 11 Vậy không còn phải phân biệt Hy-lạp hay Do-thái, cắt bì hay không cắt bì, man di, mọi rợ, nô lệ, tự do, nhưng chỉ có Đức Ki-tô là tất cả và ở trong mọi người.
Tin mừng: Lc 12, 13-21
13 Khi ấy, có người trong đám đông nói với Đức Giê-su rằng: “Thưa Thầy, xin Thầy bảo anh tôi chia phần gia tài cho tôi.”
14 Người đáp: “Này anh, ai đã đặt tôi làm người xử kiện hay người chia gia tài cho các anh?”
15 Và Người nói với họ: “Anh em phải coi chừng, phải giữ mình khỏi mọi thứ tham lam, không phải vì dư giả mà mạng sống con người được bảo đảm nhờ của cải đâu.”
16 Sau đó Người nói với họ dụ ngôn này: “Có một nhà phú hộ kia, ruộng nương sinh nhiều hoa lợi, 17 mới nghĩ bụng rằng: ‘Mình phải làm gì đây? Vì còn chỗ đâu mà tích trữ hoa mầu!’
18 Rồi ông ta tự bảo: ‘Mình sẽ làm thế này: phá những cái kho kia đi, xây những cái lớn hơn, rồi tích trữ tất cả thóc lúa và của cải mình vào đó.
19 Lúc ấy ta sẽ nhủ lòng: hồn ta hỡi, mình bây giờ ê hề của cải, dư xài nhiều năm. Thôi, cứ nghỉ ngơi, cứ ăn uống vui chơi cho đã!’
20 Nhưng Thiên Chúa bảo ông ta: ‘Đồ ngốc! Nội đêm nay, người ta sẽ đòi lại mạng ngươi, thì những gì ngươi sắm sẵn đó sẽ về tay ai?’
21 Ấy kẻ nào thu tích của cải cho mình, mà không lo làm giàu trước mặt Thiên Chúa, thì số phận cũng như thế đó.”
1. Suy niệm (TGM Giuse Nguyễn Năng)
Suy niệm: Qua bài Tin Mừng, Ðức Giêsu cho thấy hạnh phúc của con người không phải là có nhiều của cải ở đời này, vì chúng mau qua và không thể mua được sự sống đời đời.
Nhiều lúc chúng ta cũng khờ khạo như người phú hộ kia, tìm sự bảo đảm cho cuộc sống của mình bằng cách mải mê tích cóp cho có thật nhiều tiền của mà quên đi nỗi lầm than túng thiếu của anh em. Chúng ta cũng đã lầm vì cuối cùng chúng ta chỉ còn hai bàn tay trắng.
Cầu nguyện: Lạy Chú là hạnh phúc vĩnh cửu của chúng con. Xin dạy chúng con biết khôn ngoan sáng suốt khi sự dụng những ân huệ Chúa ban. Biết dùng của cải đời này để mua lấy sự sống vĩnh cửu, bằng cách chia sẻ, giúp đỡ những anh chị em nghèo khổ chung quanh chúng con. Amen.
Ghi nhớ: “Những của ngươi tích trữ sẽ để lại cho ai ?”
2. Suy niệm (Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)
A- Phân tích (Hạt giống...)
1. Vấn đề của đoạn Phúc Âm này được gợi lên từ việc anh em tranh dành gia tài.
2. Dụ ngôn nói tới một người phú hộ đã lo tích trữ được rất nhiều của cải và cho rằng từ nay cuộc đời mình sẽ được bảo đảm.
3. Nhận định của Chúa Giêsu về người phú hộ đó: hắn là đồ ngốc vì đã lấy của cải vốn không bền để mà bảo đảm cho cuộc đời mình. Người khôn phải dùng của cải không bền ở đời này mà làm phúc để mua lấy của cải bền vững đời sau. Đó mới là bảo đảm chắc chắn thật sự cho cuộc đời.
B- Suy gẫm (...nẩy mầm)
1. Con người có khuynh hướng tạo an toàn cho mình, bằng tiền bạc, bằng bảo hiểm, bằng dự trữ... Nhưng tất cả những thứ mà con người tưởng là an toàn ấy có thể sụp đổ tan tành trong một sớm một chiều. Như thế sự an toàn của con người không nằm trong tầm tay của con người. Nó nằm trong bàn tay của Chúa. Do đó an toàn nhất là “làm giàu trước mặt Thiên Chúa” (c. 21).
2. Có hai cách xài tiền đưa đến hai kết quả khác nhau:
a) Xài một cách ích kỷ cho riêng mình - Kết quả: không bảo đảm cho sự sống đời đời.
b) Dùng tiền để “làm giàu trước mặt Chúa” - Kết quả: sự sống đời đời được bảo đảm.
3. Một ông già nghèo ngồi bên cửa sổ lo lắng cho tương lai. Một người lạ mặt ôm một con ngỗng đến tặng ông già và nói: “Ông hãy chăm sóc con ngỗng này chu đáo thì nó sẽ giúp ích cho ông”. Rồi người đó đi mất. Ông già nghèo đem con ngỗng vào nhà, cho nó ăn, cho nó uống, ban đêm cho nó ngủ trong một cái lồng sạch sẽ. Sáng hôm sau khi nhín vào chiếc lồng ông vui mừng thấy một quả trứng ngỗng bằng vàng. Ông mang quả trứng ra tiệm bán được một số tiền lớn, mua được đủ mọi thứ cần thiết cho cuộc sống. Hôm sau ông được thêm một trứng ngỗng vàng nữa. Hôm sau nữa cũng vậy. Cứ thế mỗi ngày ông nhặt được một quả trứng vàng. Từ đó ông không còn nghèo nữa, ông sống rất thoải mái. Nhưng dần dần ông trở thành tham lam. Ông không chịu mỗi ngày chỉ có một trứng, ông không thể chờ cho tới hết tuần mới có được 7 trứng. Ông muốn có ngay một lúc tất cả những trứng vàng của con ngỗng. Thế là ông mổ bụng con ngỗng ra. Nhưng ông chẳng thấy quả trứng nào trong đó cả. Ông vội may bụng ngỗng lại mong nó đừng chết. Nhưng vô ích. Khi đó người lạ mặt kia trở lại, và nói: “Trước đây tôi đã chẳng bảo với ông rằng nếu ông chăm sóc con ngỗng tử tế thì nó sẽ giúp ích cho ông sao? Bây giờ cả ông lẫn tôi đều đã mất tất cả”.
4. Có một nhà phú hộ kia, ruộng nương sinh nhiều hoa lợi mới nghĩ bụng rằng: “Thôi, cứ nghỉ ngơi, cứ ăn uống vui chơi cho đã!” Nhưng Thiên Chúa bảo ông ta: “Đồ ngốc! Nội đêm nay, người ta sẽ đòi lại mạng ngươi, thì những gì ngươi sắm sẵn đó sẽ về tay ai?” (Lc 12, 16.19-20)
Trong mớ giấy tờ còn lại của một viên sĩ quan chết ở thế chiến thứ nhất, người ta đã thu nhặt được lời kinh này:
“Lạy Chúa Giêsu, ngay từ bây giờ con chấp nhận cái chết từ bàn tay Chúa... Con ước ao chết đi để hoàn toàn bị tước đoạt tự do và nhờ thế trở nên trọn vẹn là của Ngài... Con ước ao chết đi bởi vì con phó thác vào tình Chúa vô bờ bến. Nhưng lạy Chúa Giêsu, con là của Ngài, con sẵn sàng làm việc cho Ngài lâu hơn nếu Chúa cho con sức mạnh. Con không muốn chết để chạy chốn đau khổ... Lạy Chúa, xin làm cho con điều Ngài muốn, bây giờ và cho đến muôn đời. Amen”
Tôi thật cảm động và khó quên trước cái chết của những người đang sống đẹp, sống tốt. Và tôi thật khâm phục trước cái chết của những người sẵn sàng với giờ chết, vì thấy mình đã sống trọn vẹn cho đời.
Chúa Giêsu ơi, như ngài đã dạy chúng con, chết không phải là hết, nhưng chỉ là đường dẫn đến cuộc sống vĩnh cửu. Xin giúp con biết sống trọn vẹn ở đời này. để con khỏi ngỡ ngàng trước phúc Thiên Đàng Chúa đang chờ con. (Hosanna)
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể,
Chúa đã từng chỉ cho con nẻo đường sống. Lắm lúc, con tưởng mình biết tất cả, khi một sự việc nào đó chưa xảy ra cho bản thân, thì con rất sáng suốt biết cái gì là đúng, cái gì là sai. Nếu có ai ra sức làm việc để kiếm tiền, tìm danh dự, con sẽ nói người đó là kẻ theo chủ nghĩa kim tiền, sẽ khuyên người đó không nên quá lao lực; nhưng khi cơ hội đến, con cũng không bỏ lỡ dịp y như họ!
Lạy Chúa, Chúa đã từng khuyên bảo con trên phương diện vật chất, không nên tìm sự hưởng thụ, nhưng con lại cần vật chất của cải để sống. Lạy Chúa, Chúa bảo con phải làm thế nào?
Lạy Chúa, tiền bạc thật cần thiết cho cuộc sống và sinh hoạt của con. Nhưng có những lúc nó làm con quên đi mục đích chính, quên rằng con đang trên đường tiến về quê trời.
Nhân danh sự an toàn cá nhân và gia đình, con cũng như bao người khác thường chỉ quan tâm tới hạnh phúc riêng và phớt lờ trước những người nghèo đói, nạn nhân bất công xã hội. Có những lúc việc kiếm tiền làm con ra như quên hết con đang ở đâu và sẽ đi đâu?
Lời Chúa hôm nay chất vấn con: “Những của ngươi tích trữ sẽ để lại cho ai?” (Lc 12, 20). Cuộc sống tốt đẹp không liên quan gì tới việc làm giàu, trái lại “Không phải vì dư giả mà mạng sống con người được bảo đảm nhờ của cải đâu” (Lc 12, 15).
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể đang ngự trong lòng con,
Xin dạy con biết giá trị đích thực của đồng tiền và biết cách sử dụng chúng như “tên đầy tớ trung thành” mà vươn tới hạnh phúc mai sau. Amen.
3. Suy niệm (Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)
CÁCH DÙNG CỦA CẢI ĐỜI NÀY
+++
A. DẪN NHẬP
Người đời coi trọng tiền của, coi nó như chìa khoá thành công trong cuộc đời vì người ta tôn vinh nó bằng câu: “Có tiền mua tiên cũng được”. Có người coi mục đích cuộc đời chỉ là kiếm cho ra nhiều tiền để hưởng thụ, cho nên họ đã để cho lòng đam mê tiền của chi phối họ, xúi giục họ làm những điều sai trái. Họ coi tiền của là một bảo đảm vững chắc cho cuộc sống của họ. Nhưng tác giả sách Giảng viên thì nói: “Phù vân, ôi phù vân. Tất cả chỉ là phù vân” (Gv 1, 2). Như vậy, tiền của có phải là một bảo đảm cho cuộc sống không?
Đức Giêsu trong bài Tin mừng hôm nay không chỉ trích việc thu tích của cải để làm giàu, cũng không khinh chê của cải. Ngài chỉ khuyên người ta trong khi thu tích tiền của để làm giàu, thì đồng thời cũng phải biết làm giàu trước mặt Thiên Chúa. Đừng bắt chước người phú hộ ngu ngốc chỉ biết thu tích cho nhiều của cải vật chất để hưởng thụ, coi của cải như một bảo đảm vững chắc cho cuộc sống để ăn chơi xả láng, mà bỏ quên Thiên Chúa, quên cả linh hồn mình. Vả lại, con người đâu có phải sống được mãi, một khi phải chết thì những của cải đó để cho ai?
Đối với chúng ta tiền của không có gì là xấu, vì tất cả những gì Thiên Chúa dựng nên thì đều tốt. Tuy thế, tiền của cũng có thể trở nên một đứa đầy tớ trung thành của chúng ta, mà cũng có thể trở nên một ông chủ khắc nghiệt biến chúng ta thành những tên nô lệ khốn nạn của nó. Chúa khuyên chúng ta hãy tránh thói tham lam, hãy biết chia sẻ. Một trong những cách làm giàu trước mặt Thiên Chúa là biết chia sẻ, biết giúp đỡ những người túng thiếu. Tất cả những gì chúng ta cho đi đều còn ở lại với chúng ta, và đó là cơ sở để Chúa ban thưởng bội hậu cho chúng ta trên quê hương vĩnh cửu.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA
+ Bài đọc 1: Gv 1, 2; 2, 21-22
Côhêlét là tác giả sách Giảng viên, đã thu góp những tư tưởng thâm thuý và khôn ngoan của nhiều thế hệ. Ngay câu mở đầu, tác giả đã khẳng định: “Phù vân, ôi phù vân, tất cả là phù vân”.
Tư tưởng này diễn tả một cái nhìn bi quan về cuộc sống của con người trên trần gian, nhưng lại rất đúng. Nếu chỉ đứng trên quan điểm nhân sinh trần tục mà nhìn, thì ý nghĩa của cuộc đời chẳng qua là một sự phù phiếm, và do đó, đời không đáng sống. Bởi vì:
- Có người suốt đời làm ăn vất vả để thu tích của cải vật chất, nhưng khi chết đi lại phải bỏ lại tất cả.
- Nhiều tiền nhiều của mà phải áy náy, đêm ngủ không yên thì ích lợi gì?
Thái độ bi quan này của tác giả chất vấn chúng ta: Đời không còn một giá trị nào khác nữa sao?
+ Bài đọc 2: Cl 3, 1-5.9-11
Thánh Phaolô nhắc nhở cho tín hữu Côlôssê cuộc sống mới của họ sau khi chịu phép rửa tội.
Thật vậy, nhờ phép Rửa tội, người tín hữu đã trở nên con người mới và hy vọng sẽ được sống cùng Thiên Chúa mãi mãi. Vì thế, họ phải cởi bỏ con người cũ theo tính xác thịt với những đam mê trần tục, hãy mặc lấy con người mới theo hình ảnh của Đức Giêsu Kitô.
Do đó, người môn đệ của Đức Giêsu cần biết cân nhắc các yếu tố trong cuộc sống và chọn lựa: đừng tìm những sự dưới đất mà hãy tìm những sự trên trời.
+ Bài Tin mừng: Lc 12, 13-21
Đức Giêsu từ chối can thiệp vào vấn đề phân chia gia tài giữa hai anh em. Sở dĩ Đức Giêsu từ chối làm trọng tài trong vụ tranh chấp gia tài, vì Ngài cho rằng của cải không thể đảm bảo cho cuộc sống đúng nghĩa.
Dụ ngôn về người phú hộ thật là phù phiếm. Mặc dầu anh ta có biết lo liệu, nhưng anh ta chỉ có cái nhìn thiển cận: chỉ lo hưởng thụ mà không lo gì đến sự tích luỹ những của thiêng liêng không hư nát.
Theo nhận định của Đức Giêsu, anh ta là đồ ngốc vì đã lấy của cải vốn không bền mà bảo đảm cho đời mình. Chết đi anh để của cải lại cho ai? Nếu anh ta khôn thì hãy chia sẻ cho những người nghèo, thì khi anh chết đi, gia sản của anh sẽ biến thành kho tàng không bao giờ hư nát. Đó mới là bảo đảm chắc chắn thật sự cho cuộc đời.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA: Kho tàng không hề hư nát
I. ĐỒNG TIỀN LIỀN KHÚC RUỘT
Người ta thường nói: “Đồng tiền liền khúc ruột” nói lên cái tâm lý của con người yêu chuộng tiền của mình có, cố giữ lấy, không thể tin ai, buông cho ai được. Động đến tiền là cảm thấy đau xót như “Của đau con xót”: tâm lý đau xót khi của cải bị mất mát cũng như con cái bị người ngoài bắt nạt, hành hạ.
1. Người ta đánh giá cuộc đời
Đời là một cuộc chiến đấu. Phải chiến đấu để mà sống. Nhưng khi nói tới cuộc sống người ta chỉ nghĩ đến cơm ăn áo mặc, nhà ở, phương tiện di chuyển và giải trí. Nó chỉ là đời sống vật chất. Vậy còn đời sống tinh thần thì sao, nhất là đời sống siêu nhiên? Nhìn vào cuộc sống, không biết thi sĩ Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu suy tư thế nào mà phát biểu một câu có tính cách triết lý:
Đời đáng sống hay không đáng sống
Nhấp chén quỳnh xin hỏi bạn tri âm?
Nếu có phải trả lời cho thi sĩ thì phần lớn người ta sẽ trả lời là đời đáng sống, nhưng sống để làm gì? Ta hãy nghe một số sinh viên Mỹ trả lời trong một cuộc phỏng vấn:
Năm 1987, Hội đồng Quốc gia Hoa Kỳ đặc trách giáo dục, đã thực hiện một cuộc phỏng vấn các sinh viên sắp mãn Đại học về mục đích cuộc đời của họ trong tương lai: Họ muốn gì? Họ nhằm điều gì trước hết? Kết quả như sau: 75% trong số 200.000 sinh viên được hỏi ý kiến đã trả lời cho biết: “Mục đích cuộc đời tương lai của họ là làm sao kiếm được thật nhiều tiền”. Các sinh viên này cho biết: “Sau khi học xong, họ muốn có một việc làm tốt với đồng lương cao để sống thoải mái”.
2. Giá trị cuộc đời
Người ta nói: “Có tiền mua tiên cũng được”. Tiên là nhân vật tưởng tượng trong truyện thần thoại, tượng trưng cho người đẹp nhất, quí nhất. Đây là quan niệm đề cao đồng tiền: có tiền mua gì được nấy. Vì vậy người ta mới nói:
Đồng tiền là tiên là Phật - Là sức bật của tuổi trẻ- Là sức khoẻ của tuổi già
Là cái đà danh vọng - Là cái lọng che thân- Là cán cân công lý…
Trong cuộc tương giao của con người trong đời sống xã hội, đồng tiền vẫn giữ vai trò chủ chốt, nó chi phối sự tương giao, nó làm lệch cán cân công lý, nó có thể đổi trắng ra đen, như người ta nói:
Đồng tiền không phấn không hồ,
Đồng tiền khéo điểm, khéo tô mặt người.
Qua kinh nghiệm của cuộc sống, trước sức mạnh của đồng tiền chi phối con người, thi sĩ Nguyễn Bỉnh Khiêm đã phải than một cách chua cay:
Nếu không điều lợi khôn thành dại,
Đã có đồng tiền dở cũng hay.
Ngạn ngữ La tinh có nói: “Tiền của là tên đầy tớ rất tốt, nhưng lại là người chủ rất xấu”. Và người ta cũng nói chơi với nhau: “Vô văn bất nhóc nhách”, có ý nói không có tiền của, không thể làm gì được.
3. Lòng tham của con người
Khi từ quan về ở ẩn, thi sĩ Nguyễn Công Trứ khuyên người ta đừng chờ đợi những gì quá sức mình, hãy biết dừng lại, bằng lòng với những cái mình đang có, cũng như thi sĩ biết hưởng cái thú an nhàn trong bài thơ “Chữ Nhàn”:
Tri túc tiện túc, đãi túc hà thời túc,
Tri nhàn tiện nhàn, đãi nhàn hà thời nhàn.
Biết đủ tức là đủ, đợi đủ biết bao giờ đủ,
Biết nhàn tức là nhàn, đợi nhàn biết bao giờ nhàn.
Ông Ésope, một thi sĩ ngụ ngôn của Hy Lạp, đã nói lên cái lòng tham vô đáy của con người trong câu truyện sau đây:
Truyện: Ông già và con ngỗng
Một ông già nghèo ngồi bên cửa sổ lo lắng cho tương lai. Một người lạ mặt ôm một con ngỗng đến tặng ông già và nói: “Ông hãy chăm sóc con ngỗng này chu đáo thì nó sẽ giúp ích cho ông”. Rồi người đó đi mất.
Ông già nghèo đưa con ngỗng về nhà, cho nó ăn, cho nó uống, ban đêm cho nó ngủ trong một cái lồng sạch sẽ. Sáng hôm sau khi nhìn vào chiếc lồng ông vui mừng thấy một quả trứng ngỗng bằng vàng. Ông mang quả trứng ra tiệm bán được một số tiền lớn, mua được đủ mọi thứ cần thiết cho cuộc sống. Hôm sau ông được thêm một quả trứng ngỗng bằng vàng nữa. Hôm sau nữa cũng vậy. Cứ thế mỗi ngày ông nhặt được một quả trứng vàng. Từ đó ông không còn nghèo nữa, ông sống rất thoải mái.
Nhưng dần dần ông trở thành tham lam. Ông không chịu mỗi ngày chỉ có một trứng, ông không thể chờ cho hết tuần mới có được 7 trứng. Ông muốn có ngay một lúc tất cả những trứng vàng của con ngỗng. Thế là ông mổ bụng con ngỗng ra. Nhưng ông chẳng thấy quả trứng nào trong đó cả. Ông vội may bụng ngỗng lại mong nó đừng chết. Nhưng vô ích. Khi đó người lạ mặt kia trở lại và nói: “Trước đây đã chẳng bảo với ông rằng: nếu ông chăm sóc con ngỗng tử tế thì nó sẽ giúp ích cho ông sao? Bây giờ cả ông lẫn tôi đều đã mất tất cả”.
4. Người ta đánh giá đồng tiền
Người đời cũng có kinh nghiệm về đồng tiền: nếu ta biết dùng tiền của cho đúng mức, cho xứng đáng, thì nó trở thành đầy tớ trung thành của ta; nhưng khi ta không biết dùng nó, thì nó sẽ quay trở lại làm một người chủ khắc nghiệt và biến ta thành một tên nô lệ khốn nạn của nó.
Nhưng dù sao, con người lên voi xuống chó là lẽ thường. Tiền của đem con người lên, nhưng cũng chính tiền của đã hạ con người xuống. Và sau cùng con người cũng sẽ phải chết và của cải cũng tiêu tan theo, ra đi chẳng mang được gì ngoài hai bàn tay trắng:
Vua Ngô băm sáu tàn vàng
Thác xuống âm phủ chẳng mang được gì.
II. ĐỨC GIÊSU VỚI VẤN ĐỀ TIỀN CỦA
1. Vấn đề phân chia tài sản
Theo luật Do thái (Đnl 21, 17), trong việc thừa kế, người con trai cả được hưởng trọn phần di sản, nếu là bất động sản, nghĩa là đất đai và nhà cửa. Và người con trai cả ấy cũng nhận được, theo luật pháp qui định, phần gấp đôi các động sản. Luật pháp này chung cho toàn bộ Đông phương cổ đại, và nhiều nền văn minh trong dòng lịch sử; luật ấy muốn gìn giữ di sản của gia tộc với việc lập nên “người gia trưởng” được hưởng đặc quyền: Đó là quyền con trưởng. Đức Giêsu đối diện với điều đó (Quesson).
Nhưng trường hợp ở đây, hình như người con trưởng chiếm hết phần gia tài mà không chịu thừa kế, bằng cách dùng uy tín để gây áp lực với người con trưởng bất công, vì Ngài được coi như một rabbi nổi danh, Ngài làm cách có uy quyền.
Đức Giêsu đã từ chối không muốn tham dự vào việc tranh chấp về tiền bạc. Đức Giêsu không đáp lại yêu cầu này, không phải không nhạy cảm về những bất công có thể có trong phạm vi gia đình, nhưng Ngài không muốn can thiệp vào những việc không liên hệ trực tiếp đến sứ mạng cứu rỗi. Câu trả lời của Ngài ngụ ý rằng Ngài chỉ chú trọng đến công cuộc thuộc linh thiêng, và Ngài không muốn xâm phạm vào địa hạt luật pháp dân sự hay chiếm đoạt địa vị của nhà cầm quyền: “Này anh, ai đã đặt tôi làm người xử kiện hay chia gia tài cho các anh?”
2. Dụ ngôn người phú hộ ngu ngốc
Đức Giêsu đã từ chối “chia gia tài”. Việc từ chối này có ý nói lên rằng: tuy Ngài có quyền xét xử kẻ sống kẻ chết (Cv 10, 42), nhưng sứ mạng lịch sử của Ngài ở trần gian là sứ mạng tôn giáo chứ không phải việc trần tục. Nhân dịp này Ngài nhắn nhủ với tích cách cảnh cáo rằng: cần phải tránh mọi thứ tham lam, vì của cải không làm cho đời sống được bảo đảm. Lời cảnh cáo này có ý nhắc khéo rằng đừng an tâm, đừng cậy dựa vào bất cứ một vật nào khác ngoài Thiên Chúa.
Để nói lên ý tưởng đó, Đức Giêsu đưa ra dụ ngôn người phú hộ ngu ngốc. Dụ ngôn này cho thấy rằng: người phú hộ rất thành công về ngành nông nghiệp. Sự thành công này làm cho ông ta say sưa và suy tính đến việc mở mang rộng lớn kho lẫm của ông. Trong cảnh sống giàu có, sung túc này, ông ta vui chơi ăn uống thả dàn, không nghĩ đến Thiên Chúa, bỏ quên cả linh hồn của mình; nhưng ông ta không nghĩ rằng: “Đêm nay người ta sẽ đến đòi linh hồn ngươi” thì lúc đó: “Những của cải ngươi tích trữ sẽ để lại cho ai”?
Ông ta không hề nhìn xa hơn thế giới của mình. Mọi chương trình của ông ta chỉ đặt nền tảng cuộc sống luẩn quẩn trong thế giới của ông ta.
Truyện: Rồi sao nữa?
Ngày xưa, thánh Philípphê Nêri muốn thuyết phục Phanxicô Spazzano, một sinh viên Rôma, đã hoàn toàn tin tưởng ở sự hướng dẫn của ngài về một chân lý ngàn năm. Một hôm Phanxicô Spazzano hớn hở đến báo tin cho ngài biết mình đã thành công rực rỡ trên đường khoa nghiệp. Thánh nhân trả lời:
- Khá lắm. Cha xin mừng với con. Nhưng rồi con sẽ làm gì?
- Con sẽ làm trạng sư, sẽ biện hộ ở tòa án.
- Rồi sao nữa?- Con sẽ có nhiều tiền.
- Rồi sao nữa?- Con sẽ lập gia đình.
- Rồi sao nữa?- Con sẽ sống hạnh phúc.
- Rồi sao nữa?
Chàng sinh viên suy nghĩ một lúc rồi trả lời:
- Rồi… rồi con cũng sẽ chết như bất cứ ai khác.
- Rồi sao nữa?
Chàng sinh viên im lặng bỏ đi, trầm tư và u buồn. Tuy nhiên, câu hỏi cứ nhắc đi nhắc lại mãi, chàng cứ bị ám ảnh hoài. Và để đảm bảo cho cái “Rồi sao nữa” kia, cuối cùng, chàng từ giã đường trần khoác áo tu trì.
Khi giải thích dụ ngôn này của Chúa, thánh Athanasiô đưa ra lời khuyên: “Ai sống như phải chết mỗi ngày – vì biết rằng cuộc sống này tự nó là tạm bợ, không chắc chắn – sẽ không phạm tội, vì sợ hãi Chúa dập tắt một phần lớn lòng tham lam; trái lại, ai nghĩ mình còn sống lâu sẽ dễ dàng để cho mình bị dục vọng cai trị”.
Trong dụ ngôn này Đức Giêsu có ý nói lên sự nguy hiểm của giàu sang, và sự tham lam của cải vật chất. Vì vậy, Ngài dùng dụ ngôn này để cảnh giác cho hết mọi người: Người giàu có lo tích trữ của cải, cũng như người nghèo tham lam của cải. Ở đây Chúa trách người con trưởng tham lam chiếm đoạt gia tài mà không chia cho người em, đồng thời Ngài cũng trách người em vì ham mê của cải mà tranh chấp gia tài với người anh.
III. CHÚNG TA VỚI VẤN ĐỀ TIỀN CỦA
1. Ưu tiên hàng đầu của cuộc sống
Các bài đọc hôm nay mời gọi chúng ta duyệt xét lại những gì là ưu tiên hơn cả trong cuộc sống. Những lời sách Giảng viên đã nhắc nhở chúng ta: “Phù vân, quả là phù vân. Phù vân quả là phù vân. Tất cả chỉ là phù vân. Lợi lộc gì đâu khi con người phải chịu đựng bao gian lao vất vả dưới ánh mặt trời”. Chúng mô tả một quan điểm bi đát về cuộc sống, nhưng điều chúng ta muốn nói khiến chúng ta phải hỏi: “Mục đích của đời sống là gì?” Chắc chắn không phải là tích luỹ của cải – của cải trong mọi trường hợp phải để lại đàng sau.
Những sự vật trần gian không bao giờ có thể thỏa mãn tâm hồn con người. Chỉ Thiên Chúa mới có thể cho chúng ta hạnh phúc mà tâm hồn chúng ta khao khát. Vì thế thánh Phaolô nói: “Anh em hãy hướng lòng trí về những gì thuộc thượng giới, chứ đừng chú tâm vào những gì thuộc hạ giới”. Và Đức Giêsu khuyên chúng ta: “Đừng thu tích của cải trần gian cho mình mà hãy lo làm giàu trước mặt Thiên Chúa”. Cái làm cho chúng ta giàu có trước mặt Thiên Chúa không phải là chúng ta có gì hoặc làm gì, nhưng chúng ta là gì.
2. Tiễu trừ tính tham lam
Qua bài Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu không chỉ nói về những người giàu có, nhưng nói với tất cả mọi người, vì bất cứ ai cũng có tính tham lam. Người nghèo cũng tham lam của cải như người giàu, không phải vì có nhiều tiền bạc hay ít của cải làm cho một người ra tham lam, nhưng khi người ta bị ám ảnh bởi của cải vật chất, người ta không còn biết thế nào là đủ. Túi tham vô đáy, chẳng bao nhiêu cho vừa. Người La mã có câu ngạn ngữ: “Của cải như nước muối, bạn càng uống thì càng khát”.
Sách Giáo lý Công giáo số 2536 dạy như sau: “Điều răn thứ mười cấm chỉ sự thèm thuồng, ước ao của cải trần gian cách vô độ; nó cũng cấm tính tham lam thái quá, sinh ra từ sự đam mê vô độ, sự giàu có và quyền lực do sự giàu sang mang lại”.
Chúng ta thường nghe nói: “Tham thì thâm”, quả là đúng. Trên đời này không thiếu gì những người có lòng tham và ích kỷ, đến nỗi muốn đi mượn hòm để chôn mình thay vì bỏ tiền ra mua. Cũng có những người vất vả suốt cả đời lo thu tích của cải, đến nỗi không dám ăn no, ngủ ngon, để rồi nửa đời người còn lại phải dùng của cải đã thu tích để bồi dưỡng lại sức khoẻ đã mất, chỉ vì lòng ích kỷ và tham lam quá mức. Thật vậy, những người quá lo thu tích của cải sẽ trở nên mù quáng, họ liều mình đánh mất không những tự do mà còn mất cả đời sống mình.
Truyện: Ham mê của cải
Ham mê của cải tiền bạc là cái tật mà xưa nay có ngàn lẻ một chuyện từng được kể. Nhưng thời nay lại có câu chuyện lý thú thế này: Một thanh niên nọ tình cờ nhặt được một đồng đôla bằng bạc trên đường. Thế là từ đó, mỗi lần đi đâu, anh đều cúi đầu xuống để chú tâm tìm kiếm. Kết quả là sau ba mươi năm anh ta nhặt được 3, 5 đôla tiền bằng bạc, 37 đồng nửa đôla bằng đồng, gần 18.500 nút áo đủ cỡ, khoảng 14.400 cây kim may và kim gút đủ loại. – Nhưng anh phải đổi bằng cái tật khòm lưng. Một tâm trạng bi quan cộng thêm một tính khí khó thương. Vì đôi mắt anh từ lâu đã không nhìn lên bầu trời và bao hoa lá cỏ cây xinh đẹp… Tính ham mê của cải đã “giết chết con người anh”.
Phương pháp làm cho chúng ta được hạnh phúc là biết chấp nhận. Hạnh phúc không phải là có cái chúng ta mong muốn, nhưng là chấp nhận cái chúng ta có. Dù giàu hay nghèo, hạnh phúc là bằng lòng với cái mình đang có, và ngay cả cái mình không có nữa. Hãy biết chấp nhận mọi sự như chương trình của Thiên Chúa đã sắp đặt với lòng biết ơn rằng: có Thiên Chúa là có tất cả mọi sự (Dt 13, 5-6). Một người không bằng lòng với những cái mình đang có sẽ không bao giờ có hạnh phúc. Họ luôn sống trong bất mãn và đau khổ, vì lúc nào cũng tham muốn có thêm.
3. Hãy biết chia sẻ
Chúa dạy chúng ta: “Đừng thu tích của cải trần gian cho mình, mà hãy lo làm giàu trước mặt Thiên Chúa”. Cái làm cho chúng ta giàu có trước mặt Thiên Chúa không phải là chúng ta có gì hoặc là làm gì, nhưng chúng ta là gì.
Antoine de Saint-Exupéry nói: “Khi giờ sau cùng của bạn giáng xuống, bạn chỉ nên dựa vào điều mà bạn đã trở thành”. Có hai cách xài của cải đưa đến hai kết quả khác nhau:
a) Xài một cách ích kỷ cho riêng mình, kết quả là không bảo đảm cho sự sống đời đời.
b) Dùng tiền của để làm giàu trước mặt Thiên Chúa, thì kết quả là sự sống đời đời được bảo đảm.
Thực ra, khi người giàu chia sẻ của cái cho người nghèo, cũng chỉ là bổn phận của người quản lý mà thôi. Augier đã nói một câu chí lý: “Trong dự tính của Chúa, người giàu chỉ là viên thủ quỹ của người nghèo”. Vì thế, không ai “ê hề của cải, dư xài nhiều năm” mà “cứ nghỉ ngơi, ăn uống vui chơi cho đã” (Lc 12, 19) chính là những kẻ ăn cắp.
Thánh Tôma Aquinô quả quyết: “Những người giàu đã đánh cắp của người nghèo, khi họ tiêu xài phung phí những của cải dư thừa”.
4. Phần thưởng bội hậu trên trời
Trong bài dụ ngôn hôm nay, Đức Giêsu không đả kích sự tích luỹ của cải. Ngài không phê phán công việc làm ăn của mỗi người, mà chỉ đả kích ý nghĩ khờ dại của một số người, khi họ lấy việc thu tích của cải vật chất là quan trọng hơn sự tích luỹ của cải thiêng liêng.
Sứ điệp mà Đức Giêsu muốn loan báo cho chúng ta hôm nay: Hãy dùng của cải đời này mà “làm giàu trước mặt Thiên Chúa” (Lc 12, 21). Đó chính là nghệ thuật làm giàu đích thực.
Trước mặt Thiên Chúa, chúng ta chỉ là những con người nghèo khó. Cho dù có xây bao nhiêu kho lẫm, bao nhiêu két sắt, bao nhiêu tài khoản ngân hàng, cũng chỉ là con số không. Chúng ta chỉ thực sự giàu có trước mặt Thiên Chúa, khi chúng ta dốc cạn kho cho người nghèo khó, mở hầu bao giúp kẻ khốn cùng. Chúa phán: “Hãy bán của cải mình đi mà bố thí. Hãy sắm lấy túi tiền chẳng bao giờ cũ rách, một kho tàng chẳng thể hao hụt ở trên trời, nơi trộm cắp không bén mảng, mối mọt cũng không đục phá” (Lc 12, 33).
Ở Kenya bên Phi châu có một vị thừa sai kể rằng: có một số dân Phi châu vẫn còn giữ tập tục lấy đi tất cả quần áo người chết đang mặc trước khi chôn cất người ấy. Một trong những mục đích của tục lệ này nhằm nói lên rằng: chúng ta rời khỏi thế gian này cũng y hệt như khi chúng ta vào thế gian. Đây chính là điều thánh Phaolô đã đề cập đến trong thư thứ nhất gửi cho Timôthê: “Chúng ta đã chẳng mang gì vào trong thế gian, và chúng ta cũng không thể mang bất cứ cái gì ra khỏi đó” (1Tm 6, 7).
Tuy thế, chúng ta có thể mang đi theo khi đi ra khỏi đời này với những cái mà chúng ta làm giàu trước mặt Thiên Chúa, tức là tất cả những gì chúng ta đã cho đi. Những cái chúng ta đã cho đi làm thành một kho tàng trên trời dành riêng cho chúng ta. Những cái chúng ta đã cho đi ở trần gian này vẫn còn tồn tại không bao giờ hư nát, và đấy cũng là những công nghiệp chúng ta dâng cho Chúa để được hưởng hạnh phúc đời đời.
Truyện: Cho một được mười triệu
Đang lững thững đi trong một đường phố, có một người ăn mày đến xin bố thí, người kia móc túi da đưa cho một đồng bạc. Tám hôm sau, nhà từ thiện đã hết sức ngạc nhiên, vì ông nhận được bức thư nặc danh, trong có ngân phiếu 10 triệu quan.
Bức thư viết thế này: Có lẽ ông còn nhớ một hôm ngao du ở Nice, ông đã bố thí cho một người ông tưởng là hành khất. Trong 10 người tôi ngửa tay xin, chỉ có một ông đã thí cho một đồng bạc. Xin ông biết cho rằng: tôi đây là một nhà triệu phú đã trá hình làm người hành khất đó, với mục đích là nắm được phần thưởng trong cuộc đánh đố. Tôi đã được cuộc, vậy xin ông cho phép tôi chia với ông số tiền thuởng đó.
Truyện rất hào hứng này, đã được tất cả các báo thuật lại và là truyện có thật. Người ta đoán ông Ernest Ingram chủ tiệm vàng ở Nice bên nước Pháp, chính là vai chủ động trong truyện.
4. Suy niệm (Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.)
TÍCH TRỮ
Mạng sống con người không được bảo đảm
nhờ có dư thừa của cải (x. Lc 12,15).
Đó là điều Đức Giêsu muốn nhắc nhở các môn đệ.
Đó cũng là điều Ngài muốn nói qua dụ ngôn ông phú hộ.
Nơi khuôn mặt ông phú hộ, ta nhận ra chính mình,
vì suy nghĩ của ông không khác với điều ta vẫn nghĩ.
Thửa ruộng của ông phú hộ có được mùa bội thu.
Hoa màu thu hoạch nhiều vô kể.
Nhưng chính điều này khiến cho ông phải suy nghĩ:
“Mình phải làm gì đây, vì chỗ để trữ không đủ?”
Nghĩ bụng như thế là điều bình thường.
Ai ở trong hoàn cảnh đó cũng sẽ nghĩ như vậy.
Sau đó ông tìm được cách giải quyết.
Đó là phá sập những kho cũ, xây những kho lớn hơn.
Rồi trữ tất cả thóc lúa và tài sản của mình vô đó.
Việc xây kho mới để chứa hoa màu là điều hiểu được,
và vẫn chưa có gì đáng trách.
Sau khi mọi sự đã yên ổn nằm trong kho,
ông phú hộ mới thanh thản tự nhủ với lòng mình:
“Hồn ta ơi! Ngươi có nhiều của cải để dành cho nhiều năm.
Hãy tận hưởng đi, ăn uống, và vui chơi” (Lc 12,19).
Giấc mơ của ông phú hộ cũng là giấc mơ của nhiều người.
Sau một đời vất vả, ai cũng mong được hưởng nhàn,
với số tiền lớn dành dụm từ bao năm.
Câu kết của dụ ngôn này khiến ta chưng hửng.
Khi ông phú hộ để mình theo dòng suy nghĩ trên đây,
ông bị Thiên Chúa coi là đồ ngốc (Lc 12,20).
Tại sao ông bị mắng như vậy, ông đâu có sai lỗi gì?
Thật ra ông ngốc vì ông không nghĩ đến chuyện cái chết
có thể đến với ông ngay trong đêm nay.
“Con như người thợ dệt, đang mải dệt đời mình,
bỗng nhiên bị tay Chúa cắt đứt ngay hàng chỉ”.
Cái chết bất ngờ làm vỡ vụn những tính toán khôn ngoan,
khiến ông trở thành người khờ dại.
“Những gì ngươi sắm sẵn bây giờ thuộc về ai?”
Những cái kho lớn đầy ắp hoa màu sẽ thuộc về ai?
Ông nghĩ mình có thể sống trong dư dật nhiều năm,
nhưng cái chết làm ông bỗng thấy mình tay trắng.
Ông phú hộ là người quy về mình, quá bận tâm đến mình.
Khi được mùa, ông chẳng biết ơn quà tặng của Chúa.
Ông coi mọi sự là của ông: kho của ông, hoa màu của ông,
thóc lúa của ông, tài sản của ông, và cả hồn cũng của ông.
Ông là chủ từ cho nhiều động từ: ông nghĩ, ông làm,
ông đập, ông xây, ông trữ vô kho, ông sắm sẵn…
Ông chẳng nghĩ đến chuyện chia sẻ cho ai,
chỉ nghĩ đến chuyện vui hưởng những gì mình tích trữ.
Tương lai của ông quá đỗi an toàn,
hạnh phúc là hưởng thụ nhiều năm bên các kho đầy ắp.
Đức Giêsu không coi ông phú hộ là người khôn.
Ông có vẻ giàu trước mắt người đời,
nhưng thật sự nghèo trước mắt Thiên Chúa.
Thời nay người ta dạy cho nhau nhiều cách làm giàu.
Đức Giêsu dạy ta cách làm giàu trước Thiên Chúa,
bằng việc làm nghèo đi tài sản của mình.
“Hãy bán tài sản của mình đi mà cho người nghèo,
để từ đó có được kho tàng trên trời” (Lc 12,33; 18,22).
Chỉ ai có kho tàng trên trời mới thật là người khôn.
Chỉ tình yêu mới đem được qua bên kia thế giới.
LỜI NGUYỆN
Giữa một thế giới mê đắm bạc tiền,
xin được sống nhẹ nhàng thanh thoát.
Giữa một thế giới lọc lừa dối trá,
xin được sống chân thật đơn sơ.
Giữa một thế giới trụy lạc đam mê,
xin được sống hồn nhiên thanh khiết.
Giữa một thế giới thù hận dửng dưng,
xin được chia sẻ yêu thương và hy vọng.
Lạy Chúa Giêsu mến thương,
xin dạy chúng con biết cách
làm chứng cho Chúa giữa cuộc đời.
Xin giúp chúng con tìm ra những cách thức mới
để người ta tin và yêu Chúa hơn.
Ước gì hơn hai tỉ Kitô hữu
giữ được vị mặn của muối và sức biến đổi của men,
để chúng con làm cho thế giới này mặn mà tình người,
và cho trần gian này trở thành tấm bánh thơm ngon.
Chỉ mong Thiên Chúa Cha được tôn vinh
qua những việc tốt đẹp chúng con làm
cho những người bé nhỏ.
5. Suy niệm (song ngữ)
Bài Đọc I: Giảng Viên 1, 2.2, 21-23
II: Côlôsê 3, 1-5.9-11
18th Sunday in Ordinary Time
Reading I: Ecclesiastes 1:2, 2:21-23
II: Colossians 3:1-5, 9-11
Gospel
Luke 12:13-21
13 One of the multitude said to him, "Teacher, bid my brother divide the inheritance with me."
14 But he said to him, "Man, who made me a judge or divider over you?"
15 And he said to them, "Take heed, and beware of all covetousness; for a man’s life does not consist in the abundance of his possessions."
16 And he told them a parable, saying, "The land of a rich man brought forth plentifully;
17 and he thought to himself, ‘What shall I do, for I have nowhere to store my crops?’
18 And he said, ‘I will do this: I will pull down my barns, and build larger ones; and there I will store all my grain and my goods.
19 And I will say to my soul, Soul, you have ample goods laid up for many years; take your ease, eat, drink, be merry.’
20 But God said to him, ‘Fool! This night your soul is required of you; and the things you have prepared, whose will they be?’
21 So is he who lays up treasure for himself, and is not rich toward God."
|
Phúc Âm
Luca 12, 13-21
13 Khi ấy, có người trong đám đông thưa cùng Chúa Giêsu rằng: "Lạy Thầy, xin Thầy bảo anh tôi chia gia tài cho tôi".
14 Người bảo kẻ ấy rằng: "Hỡi người kia, ai đã đặt Ta làm quan xét, hoặc làm người chia gia tài cho các ngươi?"
15 Rồi Người bảo họ rằng: "Các ngươi hãy coi chừng, giữ mình tránh mọi thứ tham lam: vì chẳng phải sung túc mà đời sống được của cải bảo đảm cho đâu."
16 Người lại nói với họ thí dụ này rằng: "Một người phú hộ kia có ruộng đất sinh nhiều hoa lợi,
17 nên suy tính trong lòng rằng: ‘Tôi sẽ làm gì đây, vì tôi còn chỗ đâu mà tích trữ hoa lợi?’
18 Đoạn người ấy nói: ‘Tôi sẽ làm thế này, là phá các kho lẫm của tôi mà xây những cái lớn hơn, rồi chất tất cả lúa thóc và của cải tôi vào đó,
19 và tôi sẽ bảo linh hồn tôi rằng: "Hỡi linh hồn, ngươi có nhiều của cải dự trữ cho nhiều năm: ngươi hãy nghỉ ngơi, ăn uống vui chơi đi."
20 Nhưng Thiên Chúa bảo nó rằng: ‘Hỡi kẻ ngu dại, đêm nay người ta sẽ đòi linh hồn ngươi, thế thì những của ngươi tích trữ sẽ để lại cho ai?’
21 Vì kẻ tích trữ của cải cho mình mà không làm giàu trước mặt Chúa thì cũng vậy".
|
Interesting Details
This passage is referred as the parable of the rich fool and only found in Luke. It was prompted by a dispute between brothers over inheritance.
(v.13) In the inheritance laws described in Num 27:1-11 and Deut 21:15-17, the father’s heritage was passed on to the following chain of beneficiaries: son, daughter, brothers, uncles and nearest relative. The oldest son always got a larger portion of the heritage. According to Roman law, a division of inheritance was required only if both parties requested it. However, Judaic law allowed the division on the petition of a single son (Lk 15:12 - the parable of the lost son).
(v.14) Jesus was invited to be a judge and a mediator in what nowadays is called a civil case. At that time, there was no distinction between various facets of the law; a rabbi was expected to provide the answers in all cases even in family disputes. Jesus refused to be drawn into the conflict driven by greed but used the opportunity to teach about the trap of possessions.
(vv.17-19) The words "I" and "my" were repeatedly used to emphasize the egocentric view of the rich man. Family, neighbors and God were all absent from his plan.
(vv.20-21) God condemned the rich man as a fool because even with careful planning he would not know when the time came, then why he had to accumulate so much wealth.
|
Chi Tiết Hay
Đoạn Phúc Âm này quen gọi là dụ ngôn người giàu khờ dại và chỉ được ghi lại trong Phúc Âm thánh Lucạ Dụ ngôn khi hai anh em tranh chấp về vấn đề chia gia tài.
(c.13) Trong luật thừa tự ghi trong sách Dân Số 27, 1-11 và Đệ Nhị Luật 21, 15-17, gia tài của người cha được để lại cho các người thừa tự theo thứ tự như sau: con trai, con gái, anh em, chú bác và người bà con gần. Người con trưởng khi nào cũng được hưởng phần lớn nhất. Theo luật Roma, gia tài phải chia chỉ khi có sự đồng ý của tất cả mọi người liên hệ, trong khi luật Do Thái cho phép một người có quyền đòi chia gia tài (Luca 15, 12 - dụ ngôn người con hoang đàng).
(c.14) Chúa Giêsu được mời làm xử án và người giải hòa trong một tranh chấp mà thời nay thường được xếp vào trường hợp của luật dân sự. Vào thời đó, không có sự phân biệt rõ ràng giữa các loại luật lệ, thầy rabbi có thể trả lời trong mọi tranh chấp ngay cả tranh chấp trong gia đình. Chúa Giêsu tránh không muốn dính vào sự tranh chấp bởi lòng tham lam mà dùng cơ hội đệ dạy về cạm bẩy do của cải.
(cc.17-19) Chữ "tự mình" được dùng đi dùng lại nhiều lần để nhấn mạnh về sự tự trung tự đại của người giàu có. Trong chương trình của ông, không gì đếm xỉa tới gia đ`inh, người láng giềng hoặc về Chúa.
(cc.20-21) Chúa kết án người giàu có là người khờ dại bởi vì ngay cả khi đã dự liệu thật kỹ càng ông cũng không biết giờ nào mình sẽ bị cất đi thì tại sao ông lại phải thu tích của cải nhiều như vậy.
|
One Main Point
The purpose of life is not to be rich in material possessions, but to be rich in the sight of God. That is to share the wealth to those in need.
|
Một Điểm Chính
Mục đích của cuộc đời không phải là làm giàu của cải vật chất, mà làm giàu những gì dưới mắt của Thiên Chúa. Đó là chia sẻ những gì mình có cho người khốn cùng.
|
Reflections
1. When I get involved in a family dispute, what is the driving force to settle the differences?
2. Similar to the rich man in the parable, do I spend so much time and energy to accumulate wealth and a great plan to secure a comfortable future? Do I totally control that future? What do I miss in my plan?
3. How do I treat my possessions? Do I rightfully earn them or consider them as gifts from God? How do I balance between the need and the excessive?
|
Suy Niệm
1. Khi gặp phải những tranh chấp trong gia đình anh em, tôi phải dùng sức mạnh nào để giảng hòa sự khác biệt?
2. Cũng như người giàu có trong dụ ngôn, tôi có dùng quá nhiều thời giờ và sức lực để làm giàu và để dự tính một tương lai bảo đảm sung túc không? Tương lai đó có hoàn toàn thuộc về tôi chăng? Tôi quên gì trong dự tính đó?
3. Tôi dùng của cải thế nào? Nó có phải hoàn toàn là do công sức của tôi hay là món quà của Thiên Chúa? Làm thế nào để tôi quân bình giữa những gì cần có và những gì xa xỉ?
|