Thầy có thật là Đấng phải đến không,
hay là chúng tôi còn phải đợi ai khác?
Bài đọc 1: Is 35, 1-6a.10
Chính Thiên Chúa sẽ đến cứu anh em.
Bài trích sách ngôn sứ I-sai-a.
1Vui lên nào, hỡi sa mạc và đồng khô cỏ cháy,
vùng đất hoang, hãy mừng rỡ trổ bông,
2hãy tưng bừng nở hoa như khóm huệ,
và hân hoan múa nhảy reo hò.
Sa mạc được tặng ban ánh huy hoàng của núi Li-băng,
vẻ rực rỡ của núi Các-men và đồng bằng Sa-ron.
Thiên hạ sẽ nhìn thấy ánh huy hoàng của Đức Chúa,
và vẻ rực rỡ của Thiên Chúa chúng ta.
3Hãy làm cho những bàn tay rã rời nên mạnh mẽ,
cho những đầu gối bủn rủn được vững vàng.
4Hãy nói với những kẻ nhát gan: “Can đảm lên, đừng sợ !
Thiên Chúa của anh em đây rồi; sắp tới ngày báo phục,
ngày Thiên Chúa thưởng công, phạt tội.
Chính Người sẽ đến cứu anh em.”
5Bấy giờ mắt người mù mở ra, tai người điếc nghe được.
6aBấy giờ kẻ què sẽ nhảy nhót như nai,
miệng lưỡi người câm sẽ reo hò.
10Những người được Đức Chúa giải thoát sẽ trở về,
tiến đến Xi-on giữa tiếng hò reo,
mặt rạng rỡ niềm vui vĩnh cửu.
Họ sẽ được hớn hở tươi cười,
đau khổ và khóc than sẽ biến mất.
Đáp ca: Tv 145, 6b-7a.7b-8.9-10 (Đ. x. Is 35, 4)
Đ.Lạy Chúa, xin đến cứu chúng con.
6bChúa là Đấng giữ lòng trung tín mãi muôn đời, 7axử công minh cho người bị áp bức,
ban lương thực cho kẻ đói ăn.
Đ.Lạy Chúa, xin đến cứu chúng con.
7bChúa giải phóng những ai tù tội, 8Chúa mở mắt cho kẻ mù loà.
Chúa cho kẻ bị dìm xuống đứng thẳng lên,
Chúa yêu chuộng những người công chính.
Đ.Lạy Chúa, xin đến cứu chúng con.
9Chúa phù trợ những khách ngoại kiều,
Người nâng đỡ cô nhi quả phụ,
nhưng phá vỡ mưu đồ bọn ác nhân.10Chúa nắm giữ vương quyền muôn muôn thuở,
Xi-on hỡi, Chúa Trời ngươi hiển trị ngàn đời.
Đ.Lạy Chúa, xin đến cứu chúng con.
Bài đọc 2: Gc 5, 7-10
Anh em hãy bền tâm vững chí, vì ngày Chúa quang lâm đã gần tới.
Bài trích thư của thánh Gia-cô-bê tông đồ.
7 Thưa anh em, xin anh em cứ kiên nhẫn cho tới ngày Chúa quang lâm. Kìa xem nhà nông, họ kiên nhẫn chờ đợi cho đất trổ sinh hoa màu quý giá: họ phải đợi cả mưa đầu mùa lẫn mưa cuối mùa. 8 Anh em cũng vậy, hãy kiên nhẫn và bền tâm vững chí, vì ngày Chúa quang lâm đã gần tới. 9 Thưa anh em, anh em đừng phàn nàn kêu trách lẫn nhau, để khỏi bị xét xử. Kìa Vị Thẩm Phán đang đứng ngoài cửa. 10 Thưa anh em, về sức chịu đựng và lòng kiên nhẫn, anh em hãy noi gương các ngôn sứ là những vị đã nói nhân danh Chúa.
Tin mừng: Mt 11, 2-11
2 Đang ngồi tù, ông Gio-an nghe biết những việc Đức Ki-tô làm, liền sai môn đệ đến hỏi Người rằng: 3 “Thầy có thật là Đấng phải đến không, hay là chúng tôi còn phải đợi ai khác?”
4 Đức Giê-su trả lời: “Các anh cứ về thuật lại cho ông Gio-an những điều mắt thấy tai nghe: 5 Người mù xem thấy, kẻ què bước đi, người cùi được sạch, kẻ điếc nghe được, người chết trỗi dậy, kẻ nghèo được nghe Tin mừng, 6 và phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi.”
7 Họ đi rồi, Đức Giê-su bắt đầu nói với đám đông về ông Gio-an rằng: “Anh em ra xem gì trong hoang địa? Một cây sậy phất phơ trước gió chăng?
8 Thế thì anh em ra xem gì? Một người mặc gấm vóc lụa là chăng? Kìa những kẻ mặc gấm vóc lụa là thì ở trong cung điện nhà vua.
9 Thế thì anh em ra xem gì? Một vị ngôn sứ chăng? Đúng thế đó; mà tôi nói cho anh em biết, đây còn hơn cả ngôn sứ nữa.
10 Chính ông là người Kinh Thánh đã nói tới khi chép rằng: Này Ta sai sứ giả của Ta đi trước mặt Con, người sẽ dọn đường cho Con đến.
11 “Tôi nói thật với anh em: trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn ông Gio-an Tẩy Giả. Tuy nhiên, kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời còn cao trọng hơn ông.”
Giáo lý cho bài giảng Chúa nhật 3 mùa Vọng năm A
WHĐ (09/12/2025) - Để hỗ trợ các nhà giảng thuyết thuận tiện hơn trong việc thêm giáo lý vào bài giảng, Ban Biên tập xin được trích dẫn những điểm giáo lý phù hợp với các bài đọc Kinh thánh của lễ Chúa nhật 3 mùa Vọng năm A theo sự hướng dẫn của Bộ Phụng tự và Kỷ luật các Bí tích.
|
Số 30, 163, 301, 736, 1829, 1832, 2015, 2362: Niềm vui
Số 227, 2613, 2665, 2772: Kiên nhẫn
Số 439, 547-550, 1751: Chúa Giêsu thực hiện các dấu chỉ Người là Đấng Messia
Bài Ðọc I: Is 35, 1-6a. 10
Bài Ðọc II: Gc 5, 7-10
Phúc Âm: Mt 11, 2-11
|
Số 30, 163, 301, 736, 1829, 1832, 2015, 2362: Niềm vui
Số 30. “Tâm hồn những ai tìm kiếm Chúa, nào hoan hỉ!” (Tv l05,3). Dù con người có thể quên lãng hay chối từ Thiên Chúa, nhưng chính Thiên Chúa vẫn không ngừng kêu gọi mọi người tìm kiếm Ngài để họ được sống và đạt được hạnh phúc. Nhưng việc tìm kiếm này đòi hỏi con người phải có nỗ lực của trí tuệ, sự ngay thẳng của ý chí, “một tấm lòng thành”, và phải có cả chứng từ của những người khác để dạy con người tìm kiếm Thiên Chúa.
“Lạy Chúa, Chúa vĩ đại và rất đáng ca tụng: quyền năng của Chúa cao cả và sự khôn ngoan của Chúa thật khôn lường. Và con người, một phần nhỏ bé trong các thụ tạo của Chúa, con người trong thân phận phải chết, mang nơi mình chứng tích của tội lỗi mình và chứng tích việc Chúa chống lại kẻ kiêu căng: vậy mà con người như vậy, một phần nhỏ bé trong các thụ tạo của Chúa, muốn ca tụng Chúa. Chính Chúa thúc giục để con người vui thích ca tụng Chúa, bởi vì Chúa đã dựng nên chúng con cho Chúa, và tâm hồn chúng con không yên nghỉ cho đến khi được yên nghỉ trong Chúa”[1].
Số 163. Đức tin làm cho chúng ta như được nếm trước niềm hoan lạc và ánh sáng của ơn hưởng kiến hồng phúc (visio beatifica), ơn đó là mục đích của cuộc lữ hành trần gian này của chúng ta. Lúc đó chúng ta sẽ nhìn thấy Thiên Chúa “mặt giáp mặt” (1 Cr 13,12), và “Ngài thế nào chúng ta sẽ thấy Ngài như vậy” (1 Ga 3,2). Vì vậy đức tin đã là khởi đầu của sự sống muôn đời:
“Khi chúng ta chiêm ngưỡng, như nhìn trong gương, ân sủng là những điều thiện hảo còn xa vời được hứa ban cho chúng ta, mà nhờ đức tin chúng ta mong chờ được hưởng, thì y như những điều đó đã có đây rồi”[2].
Số 301. Sau khi tạo dựng, Thiên Chúa không bỏ mặc thụ tạo của Ngài. Không những Thiên Chúa cho chúng hữu thể và hiện hữu, nhưng Ngài còn luôn luôn giữ gìn chúng “hiện hữu”, cho chúng có thể hoạt động và dẫn đưa chúng đến cùng đích của chúng. Nhận biết sự lệ thuộc tuyệt đối như vậy vào Đấng Tạo Hoá là nguồn mạch của sự khôn ngoan và tự do, của niềm vui và sự tin tưởng:
“Quả thế, Chúa yêu thương mọi loài hiện hữu, không ghê tởm bất cứ loài nào Chúa đã làm ra, vì giả như Chúa ghét loài nào, thì đã chẳng dựng nên. Nếu như Ngài không muốn, làm sao một vật tồn tại nổi? Nếu như Ngài không cho hiện hữu, làm sao nó có thể được duy trì? Lạy Chúa Tể là Đấng yêu sự sống, Chúa xử khoan dung với mọi loài, vì mọi loài đều là của Chúa” (Kn 11,24-26).
Số 736. Nhờ sức mạnh đó của Chúa Thánh Thần, các con cái Thiên Chúa có thể mang lại hoa trái. Đấng đã tháp chúng ta vào Cây Nho thật, sẽ làm cho chúng ta mang lại hoa trái của Thần Khí, là “bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hòa, tiết độ” (Gl 5,22-23). Thần Khí là sự sống của chúng ta; chúng ta càng từ bỏ chính mình[3], Thần Khí càng làm cho chúng ta hoạt động[4].
“Nhờ Chúa Thánh Thần, chúng ta được phục hồi để vào thiên đàng, được dẫn lên Nước Trời, được ban ơn làm nghĩa tử: chúng ta được vững lòng để gọi Thiên Chúa là Cha của mình, và thông phần vào ân sủng của Đức Kitô, được gọi là con cái ánh sáng và dự phần vào vinh quang vĩnh cửu”[5].
Số 1829. Niềm vui, sự bình an và lòng thương xót là như hoa trái của đức mến. Đức mến đòi hỏi phải làm điều tốt và sửa lỗi cho nhau trong tình huynh đệ; đức mến thì nhân hậu; nó khơi dậy sự tương thân tương ái, không tìm tư lợi, và quảng đại; đức mến là tình bằng hữu và sự hiệp thông:
“Yêu thương là sự hoàn tất của mọi công việc của chúng ta. Đó là mục đích: chúng ta chạy vì đó, chúng ta chạy đến đó; và khi tới đó, chúng ta sẽ yên nghỉ”[6].
Số 1832. Các hoa trái của Thần Khí là những điều trọn hảo mà Chúa Thánh Thần ban cho chúng ta, như hoa quả đầu mùa của vinh quang vĩnh cửu. Truyền thống Hội Thánh kể ra mười hai hoa trái: “Bác ái, hoan lạc, bình an, kiên nhẫn, quảng đại, nhân từ, từ tâm, khoan dung, trung tín, khiêm nhu, tiết độ, khiết tịnh” (Gl 5,22-23 vulg.).
Số 2015. Con đường của sự trọn hảo phải đi qua thập giá. Không thể có sự thánh thiện, nếu không có sự từ bỏ và cuộc chiến đấu thiêng liêng.[7] Sự tiến bộ về đời sống thiêng liêng bao hàm sự khổ chế và hy sinh hãm mình, là những điều từng bước dẫn tới việc sống trong bình an và hoan lạc của các mối phúc:
“Ai trèo lên, người đó không bao giờ ngừng từ bắt đầu này tiếp sau bắt đầu kia, qua những bắt đầu không chấm dứt. Người đó không bao giờ ngừng ao ước điều người đó đã biết rồi”[8].
Số 2362. “Những hành vi…, qua đó đôi phối ngẫu kết hợp với nhau cách thân mật và khiết tịnh, đều ngay chính và xứng đáng, và khi được thực hiện cách thật sự nhân bản, những hành vi ấy biểu thị và khích lệ sự hiến thân cho nhau, nhờ đó hai người làm cho nhau thêm phong phú trong tâm tình vui mừng và biết ơn”[9]. Tính dục là nguồn mạch của sự hoan lạc và thú vui.
“Chính Đấng Tạo Hoá ... cũng đã sắp đặt để, trong nhiệm vụ sinh sản, đôi phối ngẫu gặp được thú vui và hạnh phúc cả thân xác cả tinh thần. Vì vậy, đôi phối ngẫu chẳng làm điều gì xấu, khi tìm kiếm và tận hưởng thú vui đó. Họ đón nhận những gì Đấng Tạo Hoá đã nhắm ban cho họ. Tuy nhiên, đôi phối ngẫu cũng phải biết giữ mình trong những giới hạn của sự tiết độ chính đáng”[10].
Số 227, 2613, 2665, 2772: Kiên nhẫn
Số 227. Đó là luôn tin tưởng vào Thiên Chúa, cả khi gặp nghịch cảnh. Một lời kinh của thánh Têrêsa Giêsu diễn tả ý đó một cách tuyệt vời:
“Đừng để điều gì làm cho bạn xao xuyến;
Đừng để điều gì làm cho bạn lo sợ.
Mọi sự đều qua đi, Thiên Chúa không thay đổi!
Kiên nhẫn sẽ được tất cả.
Ai có Thiên Chúa, người ấy chẳng thiếu gì:
Chỉ có Thiên Chúa, là đã đủ”[11].
Số 2613. Có ba dụ ngôn chính về cầu nguyện được thánh Luca lưu lại cho chúng ta:
– Dụ ngôn thứ nhất, “Người bạn quấy rầy”[12], mời gọi cầu nguyện cách khẩn khoản: “Anh em cứ gõ cửa thì cửa sẽ mở cho anh em”. Chúa Cha trên trời sẽ ban cho người cầu nguyện bất cứ điều gì người ấy cần và nhất là ban Chúa Thánh Thần, Đấng chứa đựng mọi hồng ân.
– Dụ ngôn thứ hai, “Bà góa quấy rầy”[13], tập trung vào một trong các phẩm tính của việc cầu nguyện: “Phải cầu nguyện luôn, không được nản chí”, với sự kiên trì của lòng tin. “Nhưng khi Con Người ngự đến, liệu Người còn thấy lòng tin trên mặt đất nữa chăng?"
– Dụ ngôn thứ ba, “Người Pharisêu và người thu thuế”[14], liên quan đến sự khiêm tốn trong lòng của người cầu nguyện. “Lạy Thiên Chúa, xin thương con là kẻ tội lỗi”. Hội Thánh không ngừng lấy lời cầu nguyện ấy làm lời cầu nguyện của mình: Kyrie eleison! (Xin Chúa thương xót chúng con!)
Số 2665. Kinh nguyện của Hội Thánh, được nuôi dưỡng bằng Lời Chúa và việc cử hành phụng vụ, dạy chúng ta cầu nguyện với Chúa Giêsu. Mặc dù kinh nguyện đó chủ yếu dâng lên Chúa Cha, nhưng trong tất cả các truyền thống phụng vụ, vẫn hàm chứa những hình thức cầu nguyện dâng lên Đức Kitô. Một số Thánh vịnh, như hiện được thích ứng trong kinh nguyện của Hội Thánh, và Tân Ước, đặt vào môi miệng và khắc ghi trong tâm hồn chúng ta những lời khẩn nguyện dâng lên Đức Kitô: Lạy Con Thiên Chúa, Ngôi Lời của Thiên Chúa, Chúa, Đấng Cứu độ, Chiên Thiên Chúa, Đức Vua, Con chí ái của Thiên Chúa, Con Đức Trinh Nữ, Vị Mục tử nhân lành, Sự Sống của chúng con, Ánh sáng của chúng con, Hy vọng của chúng con, Sự Phục sinh của chúng con, Bạn của loài người.
Số 2772. Từ niềm tin không lay chuyển ấy, phát xuất niềm hy vọng khơi dậy mỗi một trong bảy lời cầu xin. Những lời cầu xin này diễn tả tiếng rên siết của thời hiện tại, của thời kiên nhẫn và mong đợi này, lúc mà “chúng ta sẽ như thế nào, điều ấy chưa được bày tỏ” (1 Ga 3,2)[15]. Thánh Lễ và kinh Lạy Cha đều hướng về ngày Chúa quang lâm, “cho tới khi Chúa đến” (1 Cr 11,26).
Số 439, 547-550, 1751: Chúa Giêsu thực hiện các dấu chỉ Người là Đấng Messia
Số 439. Nhiều người Do Thái, và cả một số người ngoại cùng chia sẻ niềm hy vọng của Israel, đã nhận ra nơi Chúa Giêsu những nét cơ bản của “Con vua Đavid”, Đấng Messia mà Thiên Chúa đã hứa ban cho Israel[16]. Chúa Giêsu đã chấp nhận danh hiệu Messia, Người có quyền làm như vậy[17], nhưng Người chấp nhận một cách dè dặt, bởi vì danh hiệu này bị một số người đương thời với Người hiểu theo một quan niệm quá phàm trần[18], đặc biệt mang tính chất chính trị.[19]
Số 547. Kèm theo những lời Người nói, Chúa Giêsu đã làm “những phép mầu, điềm thiêng và dấu lạ” (Cv 2,22) để cho thấy Nước Trời đang hiện diện nơi Người. Chúng chứng tỏ Chúa Giêsu chính là Đấng Messia đã được tiên báo[20].
Số 548. Các dấu lạ do Chúa Giêsu thực hiện minh chứng Chúa Cha đã sai Người đến[21]. Chúng mời gọi ta hãy tin vào Người[22]. Những ai đến với Người bằng đức tin, đức tin cho họ được điều họ thỉnh cầu[23]. Lúc đó, các phép lạ củng cố lòng tin vào Người, Đấng thực hiện các công việc của Cha Người: chúng chứng tỏ Người là Con Thiên Chúa[24]. Nhưng chúng cũng có thể là cớ vấp ngã[25]. Quả vậy, chúng không nhằm thỏa mãn trí tò mò, và lòng ưa chuộng ma thuật. Bất chấp những phép lạ hết sức tỏ tường của Người, Chúa Giêsu vẫn bị một số người loại bỏ[26], thậm chí Người còn bị tố cáo là hành động nhờ ma quỷ[27].
Số 549. Khi giải thoát một số người khỏi những sự dữ đời này như đói khát[28], bất công[29], bệnh tật và cái chết[30], Chúa Giêsu đã thực hiện các dấu chỉ Người là Đấng Messia. Tuy nhiên, Người không đến để loại trừ mọi điều xấu khỏi trần gian này[31], nhưng để giải thoát con người khỏi ách nô lệ nặng nề nhất, là ách nô lệ của tội lỗi[32], thứ ách nô lệ này ngăn cản họ trong ơn gọi của họ là làm con cái Thiên Chúa, và gây ra mọi hình thức nô lệ giữa con người.
Số 550. Khi Nước Thiên Chúa trị đến là lúc nước Satan bị sụp đổ[33]: “Nếu tôi dựa vào Thần Khí của Thiên Chúa mà trừ quỷ, thì quả là triều đại Thiên Chúa đã đến giữa các ông” (Mt l2,28). Những việc trừ quỷ do Chúa Giêsu thực hiện, giải phóng người ta khỏi quyền thống trị của ma quỷ[34]. Những việc ấy báo trước sự chiến thắng cao cả của Chúa Giêsu trên “thủ lãnh thế gian này”[35]. Nhờ thập giá của Đức Kitô mà Nước Thiên Chúa sẽ được thiết lập vĩnh viễn: “Thiên Chúa đã cai trị từ cây gỗ”[36].
Số 1751. Đối tượng được lựa chọn là điều thiện được ý chí chủ ý nhắm tới. Đó là chất liệu của hành vi nhân linh. Đối tượng được lựa chọn xếp loại hành vi của ý chí về mặt luân lý, theo như lý trí nhận biết và phán đoán đối tượng ấy phù hợp hay không phù hợp với điều thiện đích thực. Những quy tắc khách quan của tính luân lý vạch cho thấy trật tự hợp lý về điều tốt và điều xấu, một trật tự được lương tâm xác nhận.
Bài giảng Đức Thánh Cha - Chúa nhật 3 mùa Vọng năm A
WHĐ (10/12/2025) - Sau đây là những bài giảng và huấn dụ của Đức Thánh Cha trong các thánh lễ và các buổi đọc kinh Truyền tin với các tín hữu vào Chúa nhật 3 Mùa Vọng năm A.
|
Đức Phanxicô, Huấn dụ Chúa nhật 3 mùa Vọng năm A (11/12/2022) - Sự hồ nghi đôi khi cần thiết cho sự phát triển thiêng liêng
Đức Phanxicô, Bài giảng Chúa nhật 3 mùa Vọng năm A (15/12/2019) - Trở nên men và khí cụ của lòng thương xót
Đức Phanxicô, Huấn dụ Chúa nhật 3 mùa Vọng năm A (15/12/2019) - Dành chỗ trong tâm hồn cho Chúa đến
Đức Phanxicô, Huấn dụ Chúa nhật 3 mùa Vọng năm A (11/12/2016) - Mừng vui lên!
Đức Phanxicô, Huấn dụ Chúa nhật 3 mùa Vọng năm A (15/12/2013) - Sống niềm vui Tin mừng
Đức Bênêđictô XVI, Bài giảng Chúa nhật 3 mùa Vọng năm A (12/12/2010) - Xây dựng một cộng đoàn hiệp nhất
Đức Bênêđictô XVI, Huấn dụ Chúa nhật 3 mùa Vọng năm A (12/12/2010) - Anh em cứ kiên nhẫn
Đức Bênêđictô XVI, Bài giảng Chúa nhật 3 mùa Vọng năm A (16/12/2007) - Niềm vui của Chúa là sức mạnh của chúng ta
Đức Bênêđictô XVI, Huấn dụ Chúa nhật 3 mùa Vọng năm A (16/12/2007) - Hãy vui luôn trong Chúa
|
1. Suy niệm ( TGM Giuse Nguyễn Năng )
Suy niệm: “Mù được sáng, què được đi, người nghèo khó được nghe báo Tin Mừng...”. Ðó là phúc âm của thời Thiên Sai. Thiên Chúa đến đem niềm vui cho người nghèo khổ, đem Tin Mừng cho người khát vọng, chỉ những người bé mọn, yếu hèn mới là đối tượng tình yêu của Thiên Chúa. Nếu muốn được đón nhận Tin Mừng, tôi phải có tinh thần thê nào ? Tinh thần đó được thể hiện ra sao ?
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, xin hãy đến cứu chúng con. Xin Chúa đến giải thoát chúng con khỏi mù lòa, què quặt trong tâm hồn. Xin ánh sáng và sức mạnh của Chúa biến đổi chúng con nên tạo vật mới. Xin cho chúng con hân hoan trong niềm vui ơn cứu độ. Amen.
Ghi nhớ: “Thầy có phải là Ðấng phải đến chăng, hay chúng tôi còn phải đợi một Ðấng nào khác ?”
2. Suy niệm (Lm Ignatio Hồ Văn Xuân)
⦁ CHIA SẺ LỜI CHÚA
1. Bài đọc 1 : Is 35,1-6a.10
1. Chúng ta bắt đầu với một từ khó hiểu của bài đọc 1 hôm nay : Giữa những lời hứa tuyệt vời, ngôn sứ I-sai-a lại đề cập đến sự báo phục của Thiên Chúa : “sắp tới ngày báo phục”. Đây là dịp rất thuận tiện để tất cả chúng ta khám phá ra ý nghĩa của từ “báo phục” trong Kinh Thánh, vì ngôn sứ I-sai-a giải thích rất rõ ràng. Ngôn sứ I-sai-a rao giảng vào thế kỷ VI trước Công nguyên, vào thời dân Ít-ra-en đang sống kiếp lưu đày ở Ba-by-lon : Vào thời kỳ đó, có những người tuyệt vọng nên ngôn sứ I-sai-a kêu gọi : “Hãy làm cho những bàn tay rã rời nên mạnh mẽ, cho những đầu gối bủn rủn được vững vàng. Hãy nói với những kẻ nhát gan : ‘Can đảm lên, đừng sợ ! Thiên Chúa của anh em đây rồi ; sắp tới ngày báo phục.’” Và vị ngôn sứ cho biết ngay ngày báo phục là ngày gì : “Chính Người sẽ đến cứu anh em”, và ngôn sứ I-sai-a tiếp tục : “Bấy giờ mắt người mù mở ra, tai người điếc nghe được. Bấy giờ kẻ què sẽ nhảy nhót như nai, miệng lưỡi người câm sẽ reo hò.”
2. Điều đó muốn nói rằng vào lúc bản văn hôm nay được viết ra, kiểu nói “sự báo phục của Thiên Chúa” là một lời hứa ban ơn cứu độ. Vì thế, từ này mang một ý nghĩa hết sức tích cực. Trong bài đọc 1 chúng ta vừa nghe, Thiên Chúa không hề muốn báo thù con người, không hề muốn trả đũa con người, nhưng Thiên Chúa chống lại cái ác, sự dữ đang làm khổ con người, dìm con người trong bể khổ ; sự trả đũa của Thiên Chúa có chăng, chỉ là tiêu diệt cái ác, xoá đi sự dữ đang hành hạ con người, như ngôn sứ I-sai-a đã nói : “Bấy giờ mắt người mù mở ra, tai người điếc nghe được. Bấy giờ kẻ què sẽ nhảy nhót như nai, miệng lưỡi người câm sẽ reo hò. Những người được Đức Chúa giải thoát sẽ trở về.” Ta có thể nói dù chúng ta đang chịu
đau khổ thể xác hoặc tinh thần như thế nào, Thiên Chúa là Cha hay thương xót cũng sẽ giải thoát chúng ta, phục hồi chúng ta.
Nhưng phải nói rằng không phải lúc nào chúng ta cũng nghĩ như vậy ! Bản văn hôm nay của ngôn sứ I-sai-a được viết khá muộn trong lịch sử Kinh Thánh (thế kỷ VI trước Công nguyên) ; phải trải qua một quá trình mặc khải lâu dài, dân Ít-ra-en mới hiểu được điều đó, vì trong thời kỳ đầu của lịch sử Ít-ra-en, người ta nghĩ đến một vị Thiên Chúa giống hình ảnh con người, nghĩa là một Thiên Chúa cũng báo thù như con người.
Rồi dần dần nhờ mặc khải, nhờ lời rao giảng của các ngôn sứ, người ta bắt đầu khám phá Thiên Chúa đúng như bản tính của Người, chứ không phải như người ta tưởng tượng ra. Lúc bấy giờ, từ “báo phục” đã hoàn toàn thay đổi ý nghĩa.
3. Một cách rất cụ thể, khi ngôn sứ I-sai-a viết bản văn Chúa nhật hôm nay, ơn cứu độ mà những người đương thời với ông đang mong đợi, là được trở về quê cha đất tổ sau thời gian lưu đày đau khổ và nhục nhã ở Ba-by-lon ; họ đã chứng kiến sự tàn ác do đạo quân của vua Na-bu-cô-đô-nô-xo gây ra tại Giê-ru-sa-lem ; và bây giờ, cuộc lưu đày đã chấm dứt ! Năm mươi năm sống trong tuyệt vọng. Do đó không phải ngẫu nhiên mà ngôn sứ I-sai-a nói : “Hãy làm cho những bàn tay rã rời nên mạnh mẽ, cho những đầu gối bủn rủn được vững vàng. Hãy nói với những kẻ nhát gan : ‘Can đảm lên, đừng sợ !’” Trong năm mươi năm lưu đày, dân Ít-ra-en mơ có ngày trở về cố hương nhưng không dám tin là sẽ xảy ra. Và ngôn sứ I-sai-a thốt lên : “chẳng bao lâu nữa, chính Thiên Chúa sẽ đến cứu anh em” và “những người được Đức Chúa giải thoát sẽ trở về, tiến đến Xi-on giữa tiếng hò reo”.
Để trở về quê hương xứ sở, dân Ít-ra-en phải vượt qua sa mạc Ả-rập ; ngôn sứ I-sai-a mô tả cuộc vượt qua sa mạc này
như một cuộc diễu hành chiến thắng, một cuộc rước vĩ đại : “Sa mạc và đồng khô cỏ cháy sẽ vui mừng, vùng đất hoang mừng rỡ trổ bông, khóm huệ tưng bừng nở hoa và hân hoan nhảy múa reo hò. Sa mạc được tặng ban ánh huy hoàng của núi Li-băng, vẻ rực rỡ của núi Các-men và đồng bằng Sa-ron.” Đó là công trình của Thiên Chúa : “Chính Người sẽ đến cứu anh em.” Công trình cứu độ này ngôn sứ I-sai-a gọi là “vinh quang của Thiên Chúa”. Ngôn sứ nói : “Thiên hạ sẽ nhìn thấy ánh huy hoàng của Đức Chúa, và vẻ rực rỡ của Thiên Chúa chúng ta.” Rồi ngôn sứ I-sai-a tiếp tục : “Những người được Đức Chúa giải thoát sẽ trở về.” Ngôn sứ I-sai-a dùng từ “giải thoát” để áp dụng cho chính Thiên Chúa giúp ta hiểu hai điều : thứ nhất, Thiên Chúa là Đấng gần gũi nhất với chúng ta ; thứ hai là Thiên Chúa muốn giải thoát mọi người chúng ta khỏi xiềng xích của sự dữ, cách riêng là tội lỗi.
⦁ Đáp ca : Tv 145
⦁ Thánh vịnh 145 là một lời ca tụng và biết ơn Đức Chúa. Thánh vịnh 145 được sáng tác sau thời lưu đày ở Ba-by-lon, có lẽ cho việc cung hiến Đền Thờ Giê-ru-sa-lem đã được tái thiết. Đền Thờ Giê-ru-sa-lem bị đạo quân Ba-by-lon của vua Na-bu-cô-đô-nô-xo phá huỷ vào năm 587 trước Công nguyên. Năm mươi năm sau, vào năm 538 trước Công nguyên, khi vua Ky-rô của nước Ba-tư, chinh phục Ba-by-lon, ông cho phép dân Ít-ra-en đang sống kiếp lưu đày ở Ba-by-lon, được trở về quê cha đất tổ và được phép tái thiết Đền Thờ Giê-ru-sa-lem, dù gặp rất nhiều khó khăn do những người còn ở lại Giê-ru-sa-lem chống đối dữ dội. Nhưng lễ cung hiến Đền Thờ đem lại niềm vui và phấn khởi cho toàn dân Ít-ra-en, như sách Ét-ra kể lại : “Con cái Ít-ra-en, các tư tế, các thầy Lê-vi và những người lưu đày trở về, hân hoan cử hành lễ khánh thành” (Et 6,16). Như
vậy thánh vịnh này thấm đẫm niềm vui trở về xứ sở. Một lần nữa, Thiên Chúa chứng tỏ lòng trung tín của Người đối với Giao ước : Người đã chứng tỏ điều đó vào thời Xuất hành khi dân Ít-ra-en đi ra khỏi Ai-cập, và bây giờ, với việc ra khỏi Ba-by-lon, Đức Chúa hồi sinh dân riêng của Người. Người đã báo phục, như ngôn sứ I-sai-a đã nói trong bài đọc 1, nghĩa là Đức Chúa đã ban cho dân Ít-ra-en ơn cứu độ. Khi đọc lại lịch sử dân tộc của mình, dân Ít-ra-en có thể chứng minh Thiên Chúa luôn đồng hành với họ trong suốt chiều dài lịch sử của họ : “Chúa xử công minh cho người bị áp bức. Chúa giải thoát những ai tù tội.” Trong hành trình qua sa mạc, sau cuộc Xuất hành, Đức Chúa đã gửiman-na và chim cút cho dân làm thức ăn : “Chúa ban lương thực cho kẻ đói ăn.” Như vậy, dần dần, người ta khám phá ra rằng “Đức Chúa giải thoát những ai tù tội và chữa lành những kẻ mù loà, cho kẻ bị dìm xuống đứng thẳng lên.”
2. Đây không phải là ý tưởng ta tưởng tượng ra về Đấng tạo dựng vũ trụ càn khôn, nhưng là mặc khải của toàn bộ Kinh Thánh. Dân Ít-ra-en lấy làm vinh dự và hãnh diện vì được hân hạnh báo cho nhân loại biết về Thiên Chúa tình yêu và giàu lòng thương xót. Đến lượt mình, dân Ít-ra-en được mời gọi bắt chước Thiên Chúa xử sự đầy lòng thương xót với những ai đang gặp thử thách gian truân. Để có thể giáo dục dân Ít-ra-en dần dần sống lòng thương xót của Đức Chúa, luật của Ít-ra-en có những quy định bảo vệ cô nhi quả phụ, khách ngoại kiều. Đối với các ngôn sứ, đó là những tiêu chuẩn đánh giá xem dân Ít-ra-en có trung thành tuân giữ Giao ước hay không.
1. Chắc chắn người Ki-tô hữu chúng ta đọc lại thánh vịnh này khi áp dụng cho Đức Giê-su Ki-tô. Không chỉ Người làm phép lạ hoá bánh ra nhiều nuôi sống những người đương thời của Người, mà từ nay về sau, Người hiến dâng cho các thế
hệ những người đã được lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy Bánh Thánh Thể, nghĩa là Mình Máu Thánh Người ; chính Người cũng đã xác nhận : “Tôi là ánh sáng thế gian. Ai theo tôi, sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống” (Ga 8,12). Cuối cùng, chính nơi Người mà nhân loại đạt được tự do toàn vẹn và được sống dồi dào : sự phục sinh của Người là bằng chứng về cái chết thể lý không thể trói buộc những người đã được lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy : “Chúa giải thoát những ai tù tội.” Một điểm cuối cùng của thánh vịnh hôm nay : Kinh Thánh quả quyết chúng ta được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa. Vậy ta giống hình ảnh Thiên Chúa như thế nào ? Ở đây, ta có một câu trả lời và một lời động viên, khuyến khích.
A. Câu trả lời là mỗi khi chúng ta giúp đỡ một người nghèo khổ, bất hạnh, người mù, người điếc câm, tù tội, ngoại kiều, chúng ta giống hình ảnh Thiên Chúa.
B. Lời động viên : Mỗi khi ta làm một việc gì đó cho những người bé mọn nhất trong chúng ta, là ta làm cho Nước Trời sớm hiện diện giữa trần gian. Có một câu hỏi của người dự tòng khi nghe việc Chúa Giê-su làm phép lạ hoá bánh ra nhiều nuôi sống nhiều ngàn người. Người đó hỏi tại sao ngày hôm nay Chúa Giê-su không làm phép lạ để nuôi sống những người đang đói trên thế giới ? Sau một lúc im lặng, chị thì thầm : “Có lẽ Người giao cho chúng ta làm việc đó.”
2. Bài đọc 2 : Gc 5,7-10
1. Tác giả thư này là thánh Gia-cô-bê, người anh em của Chúa, đứng đầu cộng đoàn tiên khởi ở Giê-ru-sa-lem mà sách Công vụ Tông Đồ nhiều lần nói đến.
Chúng ta tìm thấy trong bức thư này chủ đề rất quen thuộc đối với các thế hệ Ki-tô hữu đầu tiên, đó là chủ đề Chúa
quang lâm, nghĩa là Chúa Giê-su Ki-tô ngự đến lần thứ hai trong vinh quang, phán xét nhân loại vào ngày cánh chung. Ta cần lưu ý rằng ngay từ lời rao giảng tiên khởi của Ki-tô giáo, người ta rất mong thấy ngày tận thế. Phải chăng việc Đức Ki-tô phục sinh khiến mọi người sốt ruột ? Nhưng trong khi chờ đợi ngày đó, thánh Gia-cô-bê khuyên mọi Ki-tô hữu nên kiên nhẫn. Chỉ trong vài hàng, ngài nhấn mạnh đến bốn lần ; ta có thể thấy kiên nhẫn đi đôi với hy vọng : “Trong khi chờ đợi ngày Chúa đến, anh em hãy kiên nhẫn” : hy vọng vì chắc chắn Chúa sẽ đến, do đó tỉnh thức là việc cần phải làm. Ngay từ đầu, sau khi Đức Ki-tô phục sinh và lên trời, người ta tưởng rằng Chúa sắp quang lâm, nghĩa là ngự đến lần thứ hai trong vinh quang, nhưng rồi nhiều năm trôi qua, việc đó vẫn chưa thấy xảy ra. Vì thế, niềm hy vọng đòi hỏi phải kiên nhẫn. Để minh hoạ cho lời mời gọi của mình, thánh Gia-cô-bê đưa ra hai kiểu mẫu Ki-tô hữu : sự khôn ngoan của người nông dân, lòng can đảm của vị ngôn sứ. Từ năm này sang năm khác, người nông dân biết mùa màng sẽ diễn tiến như thế nào, họ biết rằng : “Thiên Chúa sẽ ban mưa cho đất các ngươi đúng mùa” như sách Đệ nhị luật đã nói (Đnl 11,14).
Đối với các ngôn sứ, các ngài phải đương đầu với sự thù địch của những người mà các ngài công bố ơn cứu độ của họ. Tất cả các ngài phải học cách biết vững vàng và kiên trì thì mới có thể hoàn thành sứ mạng của mình. Cộng đoàn tín hữu của thánh Gia-cô-bê cũng có sứ vụ làm ngôn sứ, nên họ cần phải kiên trì, đứng vững trước mọi thử thách để làm tròn nhiệm vụ đã được giao ; họ cần có một sức khoẻ dẻo dai, một con tim sắt son. Thánh Gia-cô-bê nhắc lại : “Anh em hãy kiên nhẫn và bền tâm vững chí.”
2. Trong câu tiếp theo của thư Gia-cô-bê mà bài đọc 2 hôm nay không ghi ra, thánh Gia-cô-bê kể về lòng kiên trì chịu đựng trong Cựu Ước : đó là trường hợp của ông Gióp ; đây là trường hợp độc nhất Tân Ước đề cập đến ông Gióp, một nhân vật đáng cho ta bắt chước, noi gương. “Kìa xem nhà nông, họ kiên nhẫn chờ đợi cho đất trổ sinh hoa màu quý giá … Anh em cũng vậy, hãy kiên nhẫn và bền tâm vững chí, vì ngày Chúa quang lâm đã gần tới.” Anh em đã nghe nói đến lòng kiên trì của ông Gióp và đã thấy mục đích của Chúa nhắm : vì Chúa là Đấng từ bi nhân hậu ; hiểu ngầm là nếu anh em cũng kiên nhẫn như ông Gióp, bền tâm vững chí trong niềm hy vọng, anh em cũng sẽ gặp Chúa như ông Gióp đã gặp.
Cụ thể, trong mối tương giao thường ngày, người Ki-tô hữu phải hoàn thành sứ mạng ngôn sứ của mình : “Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này, là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13,35). Thánh Gia-cô-bê cũng nói tương tự : “Anh em đừng phàn nàn kêu trách lẫn nhau, để khỏi bị xét xử.” Như thế, chúng ta nhớ lại một lời nói của Chúa Giê-su : “Anh em đừng xét đoán, để khỏi bị Thiên Chúa xét đoán” (Mt 7,1), có nghĩa chỉ một mình Thiên Chúa là Thẩm Phán. Thánh Gia-cô-bê sử dụng kiểu nói : “Kìa Vị Thẩm Phán đang đứng ngoài cửa” : Trước hết, đó là một hình ảnh, vì ngày xưa, các thẩm phán thường ngồi ở cửa ra vào của thành phố, chứ không phải ở bên trong thành phố. Tiếp đến, việc đó muốn nói đến hai điều : thứ nhất, việc Chúa đến sẽ là giờ phán xét, hiểu ngầm là “anh em đang sống trong viễn cảnh này”, và nơi đó ta lại tìm thấy nhiều chủ đề mà các ngôn sứ rao giảng, cách riêng là của ông Gio-an Tẩy Giả ; thứ hai, Vị Thẩm Phán không phải là anh em, nhưng là chính Thiên Chúa, Đấng thấu suốt tâm can con người chứ không chỉ nhìn thấy bề ngoài mà thôi, người
thợ gặt đích thực không hề vội vã, vì nếu gom quá sớm cỏ lùng, sẽ làm bật luôn rễ lúa. “Cứ để cả hai cùng lớn lên cho tới mùa gặt. Đến ngày mùa, thợ gặt sẽ gom cỏ lùng lại bó thành bó mà đốt đi, còn lúa, thì thu vào kho lẫm” (Mt 13,29). Bài học nào dành cho chúng ta, đó là kiên nhẫn và bền chí trong cuộc lữ hành trần thế này, và đừng bao giờ ngồi ghế thẩm phán cả, vì chúng ta không có quyền xét đoán anh chị em mình.
2. Bài Tin Mừng : Mt 11,2-11
Chúng ta cùng tìm hiểu ba điểm :
1. Một cuộc đối thoại lạ lùng
Tin Mừng Chúa nhật tuần trước kể lại cho chúng ta thời gian đầu sứ vụ của ông Gio-an Tiền Hô, Gio-an Tẩy Giả. Ông loan báo : “Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần. Đấng đến sau tôi thì quyền thế hơn tôi.” Còn bài Tin Mừng Chúa nhật hôm nay kể lại cho chúng ta nghe một cuộc đối thoại thật lạ lùng giữa ông Gio-an đang ở trong tù và Đức Giê-su qua trung gian các môn đệ của ông Gio-an.
2. Câu hỏi của một ngôn sứ đang hoang mang
Trong bài Tin Mừng Chúa nhật tuần trước, chúng ta thấy ông Gio-an không ngừng loan báo việc Đấng Cứu Thế sẽ đến, “sức mạnh của Người giáng xuống như sấm sét”. Tuy nhiên, thái độ của Đức Giê-su lại không phù hợp với lời khuyên bảo nghiêm khắc của ông Gio-an. Đức Giê-su không hề có ý định tiêu diệt những kẻ tội lỗi, Người đi từ làng nọ đến làng kia, mở rộng đôi tay đón nhận tất cả những cảnh khốn khó cùng quẫn của con người, chữa lành bệnh nhân, tha thứ tội lỗi, kêu gọi Lê-vi – một người thu thuế bước theo Người, đồng bàn với những người tội lỗi. Khác xa với vị quan toà đáng sợ mà ông Gio-an đã loan báo, Đức Giê-su xuất hiện như người tôi tớ của
Thiên Chúa, “Người sẽ không cãi vã, không kêu to, chẳng ai nghe thấy Người lên tiếng giữa phố phường. Cây lau bị giập, Người không đành bẻ gãy, tim đèn leo lét, chẳng nỡ tắt đi.” Như vậy, ở đây ông Gio-an phải đương đầu với một chướng ngại có thể làm ông vấp ngã. Đó là một Đấng Cứu Thế tôi tớ, khiêm nhường và đau khổ, khác xa với Đấng mà ông đã loan báo. Đó là một thử thách đức tin đối với ông, vì ông đang chờ đợi một sự biểu lộ đức công bằng, thì ông lại gặp lòng thương xót của Thiên Chúa. Vì thế, từ trong ngục tù ở pháo đài Machéronte, ông Gio-an hoang mang khi nghe người ta báo cho ông biết về hoạt động của Đức Giê-su, nên đã sai các môn đệ đến hỏi Đức Giê-su : “Thầy có thật là Đấng phải đến không, hay là chúng tôi còn phải đợi ai khác ?”
⦁ Câu trả lời gây hoang mang của Đấng Cứu Thế
Câu trả lời của Đức Giê-su gồm hai phần : Phần thứ nhất là nói với ông Gio-an, còn phần thứ hai là nói về ông Gio-an.
⦁ Đức Giê-su gửi một sứ điệp cho những người được ông Gio-an sai đến : “Các anh cứ về thuật lại cho ông Gio-an những điều mắt thấy tai nghe : người mù xem thấy, kẻ què bước đi, người cùi được sạch, kẻ điếc nghe được, người chết trỗi dậy, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng.” Một sứ điệp diễn tả những hoạt động từ thiện mà Đức Giê-su ưu ái dành cho đám đông theo Người. Một sứ điệp thật sự đưa ông Gio-an về với lời loan báo của ngôn sứ I-sai-a : “Bấy giờ mắt người mù mở ra, tai người điếc nghe được. Bấy giờ kẻ què sẽ nhảy nhót như nai, miệng lưỡi người câm sẽ reo hò.” Và “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, Người sai tôi đem Tin Mừng cho người nghèo khó.” Sau cùng, Đức Giê-su nói với ông Gio-an : “Phúc thay cho người nào không vấp ngã vì tôi.”
⦁ Sau khi các môn đệ của ông Gio-an ra về, Đức Giê-su đối chiếu sứ vụ của ông Gio-an với sứ vụ của Người, và Người đã khen ngợi ông Gio-an Tẩy Giả. Nên dân chúng đến với ông Gio-an :
⦁ Không phải để xem “một cây sậy phất phơ trước gió” trên bờ sông Gio-đan, một con người nhu nhược, ngả nghiêng trước gió, nhưng ông Gio-an là một con người can đảm trong việc rao giảng, không hề nao núng trong nghịch cảnh.
⦁ Cũng không phải đi xem “một người mặc gấm vóc lụa là”, nhưng là một nhà khổ hạnh của hoang địa, mặc y phục như ngôn sứ Ê-li-a, vị ngôn sứ được người Ít-ra-en mong đợi sau hết, kẻ phải đến trước Đấng Cứu Thế.
⦁ Nhưng chính là để đi đến với “một vị ngôn sứ”, và Đức Giê-su khẳng định “còn hơn cả vị ngôn sứ nữa”. Ông là vị sứ giả cuối cùng, được ngôn sứ Ma-la-khi cho biết là kẻ dọn đường, là vị tiền hô của Đấng Cứu Thế.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giê-su, trong Tin Mừng Gio-an, Chúa đã nói với tất cả chúng con : “Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này, là anh em có lòng yêu thương nhau.” Xin Chúa ban ơn trợ giúp để mỗi người chúng con trong cuộc sống đức tin thường ngày, nỗ lực sống trọn vẹn đức bác ái yêu thương mà Chúa đã dạy và làm gương cho chúng con, nhờ đó chúng con trở nên những nhân chứng cho Thiên Chúa Tình Yêu là Cha giàu lòng thương xót. A-men.
Tự vấn :
Chúa Giê-su mời gọi tất cả chúng ta : “Anh em đừng xét đoán, để khỏi bị Thiên Chúa xét đoán.” Trong tương giao hằng ngày giữa con người với nhau, chúng ta sống lời Chúa dạy như thế nào ?
⦁ BÀI ĐỌC THÊM
1. “Những dấu chỉ của sự hiện diện Nước Thiên Chúa không có ly kỳ” (F. Deleclos, trong “Prends et mange la Parole”, Centurion-Doculot, tr. 10).
Người ta chờ đợi một người làm sáng tỏ công lý không biết thương xót và ở đây lại là một vị thuyên chữa thân xác, một lương y của các tâm hồn. Người ta đã loan báo sự báo phục của Thiên Chúa, thế mà ở đây lại là lòng thương xót được trao ban với sự dịu hiền và khiêm nhường. Một nhà giải phóng kỳ lạ và rất khác biệt với dung mạo được tiên báo ! ... “Thầy có thật là Đấng phải đến không, hay là chúng tôi còn phải đợi ai khác ?”
Đấng tiền hô sẽ thoả mãn với những dấu chỉ và bằng chứng. Thế nhưng ở đây, không phải là vinh quang rực rỡ, cũng không phải là sự báo phục thẳng tay. Cũng không là một lời giải đáp cho những hy vọng chính trị, tôn giáo, ái quốc của một số đông. Đấng Cứu Thế đang ở đó, sự giải phóng đã bắt đầu. Nước Thiên Chúa đã khai mào, một cách khác, thình lình và không ngờ. Đức Ki-tô thật sự không đáp ứng dễ dàng những tiêu chuẩn tự nhiên, những cái nhìn quá chật hẹp và quá khô cứng bởi những lợi lộc vật chất trần tục của chúng ta.
Nếu ông Gio-an đã có thể hồ nghi, điều này cũng dễ hiểu, thì những người khác đã hiểu ngay tức khắc, dù Thiên Chúa thinh lặng : những người được chữa lành, những người được thanh tẩy, những người được biến đổi và đám đông những người nghèo hèn này sau cùng được nhìn với sự yêu thương, được xem như là những con người được hoàn toàn ưu ái, con cái của vương quốc, những người thừa kế thật sự. Có thể là họ không biết tất cả những sắc thái của các lời tiên tri, không biết đến cả ngàn thứ quy định của Lề Luật, dù là thuộc về giáo thuyết, Phụng vụ hay luân lý. Họ không có kiến thức khoa học,
không quyền bính, không tiền bạc và không cả sự kính trọng. Phúc cho “những con người bé nhỏ này”, nghèo túng rất nhiều thứ, nhưng lại giàu sự hiểu biết của con tim. Họ hiểu biết mà không xét nét, và đã trở nên bằng chứng sống động của sự thâm nhập của một thế giới khác, những nhân chứng đầu tiên, còn lớn hơn cả Đấng tiền hô nữa.
Những dấu chỉ sự hiện diện của Nước Thiên Chúa và của Đấng Cứu Tinh không có gì là ly kỳ cả. Trái lại, kín đáo và ẩn giấu trong khối bột của đời sống thường ngày, chúng dễ dàng lướt qua, không ai để ý.
Những bằng chứng về tính đích thực không bị đông cứng lại trong những tuyên bố những nguyên tắc, những đe doạ và những vạ tuyệt thông ầm ĩ, cũng không có trong sự rõ ràng của những tín điều được công bố. Chính Đức Giê-su từ chối trả lời cho Đấng tiền hô qua việc giới thiệu những danh hiệu của Người, cho những thái độ khiêu khích gây kinh ngạc, đụng chạm và chia rẽ của Người.
Những bằng chứng ư ? Những cử chỉ yêu thương và tha thứ, bằng chứng của một tinh thần rộng mở và luôn luôn niềm nở, một trái tim không biên giới, một sự hoàn toàn kính trọng tất cả mọi người, một sự say mê chân lý và công bằng, một sự trung thành không ngừng bênh vực quyền lợi của Thiên Chúa và của con người. Thiên Chúa và con người không thể tách rời nhau.
1. “Mở mắt, mở tai … tâm hồn” (Mgr. L. Daloz, trong “Le Règne de Dieu s’est approché”, Desclée de Brouwer, 1994, tr. 160).
“Tìm kiếm sự phi thường, kỳ diệu luôn luôn là một cám dỗ ; còn tế nhị hơn nữa, tìm kiếm sự thành công, sự kính trọng, lòng khao khát lôi cuốn sự chú ý, thủ đắc uy tín xã hội cho chúng ta hay cho Giáo Hội. Chúng ta muốn gây một ấn tượng tốt, nếu
có thể gây nên cảm giác, muốn giới thiệu những dấu chỉ như là những thư giới thiệu. Thế nhưng, những dấu chỉ đích thực của Đấng Thiên Sai lại chiếu cố đến những người bé mọn, những người bệnh tật, những người nghèo. Vì thế, dấu chỉ của ơn cứu độ thường được giấu kín, không hiểu thấu được. Để có thể thấy được, phải tìm kiếm, phải chú ý, lắng nghe và nhìn xem : “Hãy đi báo cho Gio-an những gì anh em nghe và thấy.” Đang ở trong tù, ông Gio-an vẫn theo dõi những gì người ta nói về Đức Giê-su : ông sai các môn đệ đến với Đức Giê-su để phỏng vấn Người … Cũng phải mở rộng con tim để hiểu : “Phúc cho ai không vấp ngã vì tôi.” Chính những dấu chỉ phải đương đầu với sự mâu thuẫn … Quả thật người ta có thể bỏ qua, quả thật người ta có thể thấy chúng “không có gì đáng kể”, hay người ta có thể lầm lạc khi tìm kiếm những việc phi thường. Để nhận ra Đức Ki-tô, phải mở mắt, mở tai … và mở con tim nữa.”
1. “Phép lạ, dấu chỉ ơn cứu độ của Thiên Chúa cho con người” (A. Marchadour, “Les Evangiles au feu de la critique”, Bayard Editions, Centurion, tr. 121-122).
“Không được cô lập phép lạ ra khỏi toàn bộ Tin Mừng. Đó là phần chính yếu của sứ mạng Đức Giê-su. Có nghĩa là, ơn cứu độ do Đức Giê-su đem đến không phải chỉ là Tin Mừng suông, một sự hiểu biết giúp thoát khỏi sự tối tăm ngu dốt, và truyền đạt một kiến thức mới về Thiên Chúa ; nhưng đó cũng là một sự giải phóng thân xác, một sự khôi phục toàn diện cho những người què quặt, cho những người sống bên lề, cho những người bị đánh mất chính mình (bị ám ảnh bởi một người khác), cho những người bị loại trừ ra khỏi xã hội. Phép lạ tượng trưng cho một chương trình cứu độ, chịu trách nhiệm về những thực tại thân xác, vật lý, thiêng liêng và xã hội của con người.
Phép lạ luôn luôn xuất hiện như một sự phản kháng, chống lại một trạng thái nào đó của những sự vật, một sự từ chối chống lại tai ương, dù là sinh vật học, thiên nhiên hay xã hội. Người có ơn đoàn sủng là người vượt qua những ranh giới và giúp cho người khác vượt qua những ranh giới đó. Có thể chúng ta chạm ngón tay vào một nét lớn của phép lạ, là phải nắm giữ lại khi chúng ta tự hỏi về tính thời sự của phép lạ. Ngày nay, chúng ta ít thấy những phép lạ thuộc loại sinh vật học ; tuy nhiên, phải tự hỏi về những vươn lên, những vượt qua các giới hạn mà chúng ta được mời gọi. Phép lạ giả thuyết hai người nghèo túng : Người thứ nhất là Đức Giê-su, ‘Người vốn giàu sang phú quý, nhưng đã tự ý trở nên nghèo khó vì anh em’ (2 Cr 8,9). Người thứ hai là người đón nhận dấu chỉ của Đức Giê-su, là người khốn quẫn đến nỗi đã để cho sức mạnh của Đức Giê-su hành động trên chính mình và qua chính mình.”
3. Suy niệm (Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.)
PHÚC THAY AI KHÔNG VẤP NGÃ VÌ TÔI
“Phúc thay ai không vấp ngã vì tôi” (Mt 11,6),
không vì thấy cách tôi sống mà mất lòng tin vào tôi.
Ông Gioan Tẩy giả có nguy cơ vấp ngã vì Đức Giêsu.
Khi làm phép rửa cho Ngài ở sông Giođan (Mt 3,14),
ông nhận ra Đức Giêsu là Đấng Mêsia, Đấng phải đến,
Gioan có một hình ảnh về Đấng Mêsia.
Đấng ấy là một vị Thẩm phán nghiêm khắc,
sẽ nổi cơn thịnh nộ với những ai không hối cải,
sẽ tẩy luyện mọi người bằng Thánh Thần và lửa (Mt 3,7.11).
Đấng ấy sẽ trừng phạt những cây không sinh trái,
không phải chỉ tỉa cành, mà còn chặt luôn tận gốc (Mt 3,10).
Những hình ảnh dữ dội trên đây
ta thấy có trong Cựu Ước (Am 5,18-20; Ml 3,2-3; Is 66,24).
Gioan tin rằng khi Đức Giêsu đến, Ngài sẽ làm như thế.
Và ông đã chờ, đã bị nộp, rồi bị ngồi tù (Mt 4,12; 11,2),
và đã thất vọng vì thấy một Đức Giêsu rất khác.
Ngồi trong tù nhưng ông vẫn theo dõi các việc làm của Ngài.
Giêsu này hiền quá, không hề nghiêm khắc như ông tưởng.
Từ đó ông đã nghi ngờ về lời chứng của mình.
và đã sai các môn đệ của ông đến gặp Đức Giêsu.
Đức Giêsu cho thấy mình là Đấng Mêsia,
nhưng không như Gioan nghĩ.
Ngài đã chữa người mù, cho người bất toại đi được,
kẻ điếc được nghe, tẩy sạch người phong, hoàn sinh kẻ chết,
và người nghèo được nghe loan báo Tin Mừng (Mt 11,4-5).
Những việc này đã được ngôn sứ Isaia tiên báo (Is 61,1-2),
Và Đức Giêsu đã làm ứng nghiệm những lời tiên báo này.
Hy vọng ở trong tù, Gioan cảm thấy bình an hơn,
khi nghe các môn đệ của ông thuật lại lời Đức Giêsu.
“Phúc thay ai không vấp ngã vì tôi.”
Trong thực tế, có nhiều người đã vấp ngã vì Đức Giêsu.
“Người đã đến nhà mình,
nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận” (Ga 1,11).
Cách đến của Thiên Chúa bao giờ cũng bất ngờ,
vì lối nghĩ của Thiên Chúa khác lối nghĩ của con người.
Người Do-thái chờ mong một Đấng Mêsia chiến thắng,
đem lại cho đất nước tự do, hạnh phúc, ấm no.
Nhưng Thiên Chúa lại cho một Đấng Mêsia thất bại,
chẳng có khả năng giải phóng dân tộc,
và cũng chẳng có khả năng xuống khỏi thập giá.
Nếu Chúa Giêsu phục sinh không hiện ra cho Phaolô
thì ông sẽ mãi mãi là một người bách hại các kitô hữu,
mãi mãi coi Đức Giêsu là một tên phá hoại Do-thái giáo.
Chúa Giêsu phục sinh đã chinh phục ông về cho Ngài.
Đây là một chiến thắng lớn của Thiên Chúa.
Phaolô chẳng những tin Đức Giêsu là Đấng Mêsia,
ông còn tin Đức Giêsu chịu đóng đinh là Con Thiên Chúa.
Đời sống đức tin của chúng ta cũng có lúc gặp khó khăn.
Như Gioan ngồi trong tù, nghi ngờ và bất an,
chúng ta cũng đặt lại những câu hỏi tưởng như đã rõ.
Thiên Chúa không bị gói gọn trong những công thức,
hay bị khô cứng trong một số hình ảnh rập khuôn.
Thiên Chúa luôn luôn mới khi vén mở thêm chính mình.
Chúng ta cần lắng nghe nhau, mềm mại trong suy nghĩ,
để khám phá ra khuôn mặt mới của Thiên Chúa.
LỜI NGUYỆN
Lạy Chúa,
xin dạy con biết lắng nghe
những người ở rất gần con, gia đình, bè bạn,
những người làm việc chung với con.
Xin giúp con nhận ra rằng
dù họ nói gì với con đi nữa
thì họ cũng có ý xin con chấp nhận trọn vẹn con người họ
và thực sự lắng nghe họ.
Lạy Chúa,
xin dạy con biết lắng nghe những người ở xa con,
tiếng thì thầm của người thất vọng,
tiếng van xin của người bị bỏ rơi,
tiếng kêu cứu của người sầu muộn.
Lạy Chúa,
xin dạy con biết lắng nghe chính con người của con.
Xin giúp con đừng sợ tin vào tiếng Chúa mời gọi
trong nơi sâu thẳm nhất của lòng con.
Lạy Chúa Thánh Thần,
xin dạy con biết lắng nghe tiếng của Ngài
khi con phấn khởi hay chán nản,
khi con xác tín hay nghi ngờ,
khi con ồn ào hay lặng lẽ.
Vâng lạy Chúa, xin dạy con luôn biết lắng nghe. Amen.
Khuyết danh
4. Suy niệm (Lm. Nguyễn Vinh Sơn, SCJ)
Câu chuyện
Một ngày nọ vào năm 1780 bỗng dưng cả vùng tiểu bang Connecticut bị tối hẳn lại. Ai nấy đều cho rằng đã đến ngày tận thế.
Khi đó Hội đồng lập pháp tiểu bang đang họp. Nhiều người yêu cầu hoãn cuộc họp để họ có thể về nhà cùng với gia đình chờ Chúa đến. Nhưng ông chủ tịch nói: “Không biết hôm nay có phải là ngày tận thế hay không. Nếu không thì không cần hoãn họp. Còn nếu phải thì chúng ta càng cần chu toàn nhiệm vụ hơn nữa. Xin thắp nến lên” (Drinkwater).
Gioan luôn trung tín trong sứ vụ...
Suy niệm
Chúa Giêsu muốn đặt đối nghịch cây sậy rung rinh trước gió với sự kiên cố bất lay chuyển của Gioan. Đức tính này làm cho Gioan gần giống với ngôn sứ Giêrêmia (Gr 1,17-19), một con người bất khuất, không chịu lụy trước quyền lực dù đó là quyền lực của quân vương. Sau nay vì thẳng thắn trung trực nên ông đã phải chịu kiếp tù đày, và cuối cùng bị chém đầu, vì sự trung tín với sứ vụ tiền hô làm chứng cho sự thật. Dân chúng đến xem, và nghe Gioan rao giảng sự thống hối. Gương dọn đường qua cuộc sống giản dị được lời rao giảng sám hối tác động, dân chúng dìm mình xuống dòng sông Giođan để được Gioan làm phép rửa.
Khi được hỏi ông là ai, thì Gioan tiền hô đã trả lời một cách khiêm tốn: “Tôi chỉ là một tiếng kêu trong sa mạc: hãy dọn đường Chúa đến” (Ga 1,23). Khi nhận ra Đức Kitô, ông đã xác quyết: “Tôi không xứng đáng cúi xuống cởi dây giày cho Ngài” (Ga 1,27). Ông loan báo ngày Đấng Cứu Thế sẽ đến và làm nổi bật sứ vụ Mêssia của Ngài, Gioan đã giới thiệu các môn đệ của mình đến với Đức Kitô và các ông trở thành môn đệ của Đấng Cứu Thế (x. Ga 1,35-39), như tâm nguyện cả đời ông: “Ngài phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ đi” (Ga 3,30).
Chúa Giêsu khen Gioan là con người cao cả nhất được sinh ra từ người nữ. Ngài còn khẳng định: “Còn hơn một vị ngôn sứ nữa”, vị ngôn sứ cao cả mang sứ mạng như Êlia: “Này Ta sai ngôn sứ Êlia đến với các ngươi, trước khi Ngày của Đức Chúa đến, ngày trọng đại và kinh hoàng” (Ml 3,23). Vì vậy, Chúa Giêsu nói Gioan chính là vị sứ giả từ trời, ông là “vị sứ giả” cuối cùng, được tiên tri Malachia loan báo (x. Ml l3,1).
Trong Mùa Vọng, Gioan xuất hiện với đời sống giản dị và bằng lời rao giảng sám hối dọn đường, cho chúng ta hy vọng tràn đầy vào Đấng Cứu Thế đang đến làm cho tâm hồn của chúng ta hy vọng và tình yêu, như lời của Thánh Phaolô viết cho giáo đoàn Philipphê: “Anh em hãy vui lên! Tôi nhắc lại : anh em hãy vui lên” (Ph 4,4). Thật thế, Mùa Vọng với sắc tím của màu áo mang ý nghĩa sự sám hối, sám hối cõi lòng, của buồn sầu khắc khổ lo âu với hình ảnh hoang mạc, cảnh lưu đầy cùng với lời cầu nguyện kêu cứu van lơn: “Trời cao hãy đổ sương xuống… Mây ơi mưa Đấng Cứu Tinh…” (Is 45,8).
Ý lực sống
“Hãy nói với những kẻ nhát gan: “Can đảm lên, đừng sợ! Thiên Chúa của anh em đây rồi” (Is 35,3-4a).
5. Suy niệm (song ngữ)
3rd Sunday of Advent
Reading I: Isaiah 35:1-6,10
Reading II: James 5:7-10
Chúa Nhật 3 Mùa Vọng
Bài Đọc I: Isaia 35,1-6.10
Bài ĐọcII: Giacôbê 5,7-10
Gospel
Matthew 11:2-11
2 When John heard in prison of the works of the Messiah, he sent his disciples to him
3 with this question, “Are you the one who is to come, or should we look for another?”
4 Jesus said to them in reply, “Go and tell John what you hear and see:
5 the blind regain their sight, the lame walk, lepers are cleansed, the deaf hear, the dead are raised, and the poor have the good news proclaimed to them.
6 And blessed is the one who takes no offense at me.”
7 As they were going off, Jesus began to speak to the crowds about John, “What did you go out to the desert to see? A reed swayed by the wind?
8 Then what did you go out to see? Someone dressed in fine clothing? Those who wear fine clothing are in royal palaces.
9 Then why did you go out? To see a prophet? 7 Yes, I tell you, and more than a prophet.
10 This is the one about whom it is written: ‘Behold, I am sending my messenger ahead of you; he will prepare your way before you.’
11 Amen, I say to you, among those born of women there has been none greater than John the Baptist; yet the least in the kingdom of heaven is greater than he.
Phúc Âm
Mátthêu 11,2-11
2 Ông Gioan lúc ấy đang ngồi tù, nghe biết những việc Đức Kitô làm, liền sai môn đệ đến hỏi Người rằng:
3 ”Thưa Thầy, Thầy có đúng là Đấng phải đến không, hay là chúng tôi còn phải đợi ai khác?”
4 Đức Giêsu trả lời: “Các anh cứ về thuật lại cho ông Gioan những điều mắt thấy tai nghe:
5 Người mù xem thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng,
6 và phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi”.
7 Họ đi rồi, Đức Giêsu bắt đầu nói với đám đông về ông Gioan rằng: “Anh em ra xem gì trong hoang địa? Một cây sậy phất phơ trước gió chăng?
8 Thế thì anh em ra xem gì? Một người mặc gấm vóc lụa là chăng? Kìa những kẻ mặc gấm vóc lụa là thì ở trong cung điện nhà vua.
9 Thế thì anh em ra làm gì? Để xem một vị ngôn sứ chăng? Đúng thế đó; mà tôi nói cho anh em biết, đây còn hơn cả ngôn sứ nữa.
10 Chính ông là người Kinh Thánh đã nói tới khi chép rằng: Này Ta sai sứ giả của Ta đi trước mặt Con, người sẽ dọn đường cho Con đến.
11 ”Tôi nói thật với anh em: trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn ông Gioan Tẩy Giả. Tuy nhiên, kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời còn cao trọng hơn ông.
Interesting Details
The three sentences in 11:7-9 use a negating format to emphasize a point. First, the bold John is very different from a flimsy reed. Second, the simple and ascetic John is definitely not luxuriously clothed. Thus third, John is very different from a typical prophet, and this is the main point. What makes John so different, to underscore the point that there had not been anyone greater than John, is that he prepares the way of the Lord. That makes the Lord and those who followed Him even greater.
John knew that Jesus was Christ, but he still could not figure Jesus out. First he wondered why Jesus wanted to be baptized, now he wondered why Jesus has not done anything significant, like striking down sinners and freeing the oppressed.
“The blind receive their sight:” The Old Testament stated that the Messiah would heal the blind. Jesus is the only one in all of the Old and New Testaments to heal the blind, and it is the most frequent healing miracle of Jesus.
“Lepers are cleansed:” Leprosy was a defilement that has to be cleansed in addition to being cured.
“The poor have good news preached to them:” This is the last item, and the climax, echoing the beatitude in Mt 5:3.
Favoring the poor has always been countercultural, and may not be what people expect of the savior. Therefore, “ blessed is he who takes no offense in me.”
Chi Tiết Hay
Cách đặt câu hỏi để rồi phủ nhận của ba câu 7, 8 và 9, có mục đích nhấn mạnh một điểm. Ý thứ nhất, một người bạo dạn như Gioan thì tương phản với cây sậy mỏng manh. Thứ hai, một người bình dị và khắc khổ như Gioan chắc chắn không mặc sang trọng. Thứ ba, Gioan khác hẳn với những tiên tri thông thường, và đây là điểm chính. Gioan khác biệt hẳn ở chỗ ông là người dọn đường cho Chúa tới. Điều đó làm cho Chúa và những ai theo Ngài trở nên cao trọng hơn nữa.
Gioan biết Đức Giêsu là Đấng Kitônhưng ông không thể hình dung ra được. Trước tiên, ông thắc mắc tại sao Đức Giêsu lại muốn chịu phép rửa, kế đến ông phân vân tại sao Đức Giêsu không làm những việc trọng đại như trừng phạt kẻ có tội và giải phóng những người bị áp bức.
“Người mù được thấy”: Sách Cựu Ước đã nói rằng Đấng Mêsia sẽ chữa lành kẻ bị đui mụ Đức Giêsu là người duy nhất trong Cựu Ước cũng như Tân Ước đã chữa lành người mù, và đây cũng là phép lạ mà Ngài thường làm nhất.
“Người cùi được sạch”, bệnh phong cùi là điều ô uế không những cần được chữa khỏi mà còn đươc rửa sạch nữa.
“Kẻ nghèo được nghe tin mừng”, đây là điểm cuối cùng, và là tột điểm, làm ta liên tưởng đến các Mối Phúc Thật trong Mt 5,3.
Đứng về phía những người nghèo khó luôn là việc làm phản với văn hóa, và đó không phải là điều người ta mong đợi nơi Đấng Cứu Thế sẽ làm. Bởi vậy, “phúc thay kẻ nào không bị vấp ngã vì Ta.”
One Main Point
THE GREATEST
John is the greatest. It is hard for these people to believe that one of them could be greater than Abraham, Moses, David, etc. How is it possible? Because he prepares for Christ. So naturally the people that Christ blesses would be even greater, and become the new greatest. Who are these? They are the poor, because God preaches to them the good news. Jesus turns the world completely upside down. No wonder even John could not understand.
Một Điểm Chính
NGƯỜI CAO TRỌNG NHẤT
Gioan là người cao trọng nhất. Đối với dân chúng đó là điều thật khó hiểu vì ai có thể cao trọng hơn Abraham, Môisen, Đavít, v.v. Gioan là người cao trọng nhất vì ông là người dọn đường cho Chúa. Thật rõ ràng rằng những người được Chúa chúc phúc sẽ cao trọng hơn, và trở thành những người cao trọng nhất. Họ là ai? Họ là những người nghèo khó đã được Chúa đem tin mừng tới. Chúa Giêsu đã hoàn toàn đảo lộn thế giới. Vì thế không có gì lạ khi ngay cả Gioan cũng không hiểu nổi.
Reflections
Jesus said, “Tell John what you hear and see.” What do I hear and see? What does Jesus say and do? How do people react? What do I react in thoughts, feelings, and actions?
Do I believe that Jesus’ kingdom is the greatest? What is so great about it? Can I see the greatest of God’s kingdom in my daily life?
How am I poor, or not? How is Jesus’ good news so great for the poor?
Suy Niệm
Chúa Giêsu nói: “hãy thuật lại cho Gioan những gì các ngươi nghe và thấy.”
- Tôi thấy gì và nghe gì?
- Chúa Giêsu nói gì và làm gì?
- Người ta phản ứng ra sao?
- Tôi nghĩ và cảm nhận những gì Chúa Giêsu nói và làm?
- Tôi có tin rằng nước Chúa cao trọng, cao trọng nhất?
- Cao trọng ở khía cạnh nào?
- Tôi có nghe và thấy nước Chúa cao trọng nhất trong cuộc sống hàng ngày không?
- Tôi có phải là người nghèo đón nhận tin mừng không?
- Tôi có thể nào tin rằng Tin Mừng của Chúa Giêsu là cho kẻ nghèo khó không?