Lời Chúa Ngày 17/08/2025: Chúa nhật 20 Thường niên năm C (Lc 12,49-53)

Lời Chúa Là Ngọn Đèn Soi Con Bước

"Là Ánh Sáng Chỉ Đường Con Đi"

Lời Chúa Ngày 17/08/2025: Chúa nhật 20 Thường niên năm C (Lc 12,49-53)

Lời Chúa Ngày 17/08/2025: Chúa nhật 20 Thường niên năm C (Lc 12,49-53)

Thầy không đến để ban hoà bình, nhưng là đem sự chia rẽ.

Bài đọc 1: Gr 38, 4-6.8-10

Mẹ sinh con ra làm gì, để cho người ta chống đối, cho cả nước gây gổ với con?

Bài trích sách ngôn sứ Giê-rê-mi-a.

4 Hồi ấy, các thủ lãnh thưa với vua Xít-ki-gia-hu: “Xin ngài cho giết Giê-rê-mi-a đi, vì những luận điệu của ông ta đã làm nản lòng các binh sĩ còn lại trong thành này, cũng như toàn dân. Thật vậy, con người ấy chẳng mưu hoà bình cho dân này, mà chỉ gây tai hoạ.” 5 Vua Xít-ki-gia-hu nói: “Đây ông ta đang ở trong tay các ngươi; nhà vua cũng chẳng có thể làm gì trái ý các ngươi được.” 6 Họ liền điệu ông Giê-rê-mi-a đi, và bỏ xuống một cái hầm nước của hoàng tử Man-ki-gia-hu, trong sân vệ binh. Họ lấy dây thừng thả ông Giê-rê-mi-a xuống. Vì trong hầm không có nước, mà chỉ có bùn, nên ông bị lún sâu.

8 Ông E-vét Me-léc đi ra khỏi đền vua và thưa với vua rằng: 9 “Thưa đức vua, chúa thượng tôi, những người này làm toàn những chuyện tai ác cho ngôn sứ Giê-rê-mi-a. Họ đã thả ông xuống hầm, và ông đang chết đói ở dưới ấy, vì trong thành không còn bánh nữa.” 10 Vua liền truyền cho ông E-vét Me-léc, người Cút rằng: “Ngươi hãy đem theo ba mươi người ở đây, đi kéo ngôn sứ Giê-rê-mi-a lên khỏi hầm, kẻo ông chết mất.”

 

Đáp ca: Tv 39, 2.3.4.18 (Đ. c.14b)

Đ.Muôn lạy Chúa, xin mau phù trợ!

2Tôi đã hết lòng trông đợi Chúa,
Người nghiêng mình xuống và nghe tiếng tôi kêu.

Đ.Muôn lạy Chúa, xin mau phù trợ!

3Người kéo tôi ra khỏi hố diệt vong,
khỏi vũng lầy nhơ nhớp,
đặt chân tôi đứng trên tảng đá,
làm cho tôi bước đi vững vàng.

Đ.Muôn lạy Chúa, xin mau phù trợ!

4Chúa cho miệng tôi hát bài ca mới,
bài ca tụng Thiên Chúa chúng ta.
Thấy thế, nhiều người sẽ kính sợ
và tin tưởng vào Chúa.

Đ.Muôn lạy Chúa, xin mau phù trợ!

18Thân phận con khốn khổ nghèo hèn,
nhưng Chúa hằng nghĩ tới.
Ngài là Đấng phù trợ, là Đấng giải thoát con,
lạy Thiên Chúa con thờ, xin đừng trì hoãn!

Đ.Muôn lạy Chúa, xin mau phù trợ!

 

Bài đọc 2: Hr 12, 1-4

Chúng ta hãy kiên trì chạy trong cuộc đua dành cho ta.

Bài trích thư gửi tín hữu Híp-ri.

1 Thưa anh em, phần chúng ta, được ngần ấy nhân chứng đức tin như đám mây bao quanh, chúng ta hãy cởi bỏ mọi gánh nặng và tội lỗi đang trói buộc mình, và hãy kiên trì chạy trong cuộc đua dành cho ta, 2 mắt hướng về Đức Giê-su là Đấng khai mở và kiện toàn lòng tin. Chính Người đã khước từ niềm vui dành cho mình, mà cam chịu khổ hình thập giá, chẳng nề chi ô nhục, và nay đang ngự bên hữu ngai Thiên Chúa. 3 Anh em hãy tưởng nhớ Đấng đã cam chịu để cho những người tội lỗi chống đối mình như thế, để anh em khỏi sờn lòng nản chí. 4 Quả thật, trong cuộc chiến đấu với tội lỗi, anh em chưa chống trả đến mức đổ máu đâu.

 

Tin mừng: Lc 12, 49-53

49 Khi ấy, Đức Giê-su nói với các môn đệ rằng: “Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất, và Thầy những ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên!

50 Thầy còn một phép rửa phải chịu, và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi việc này hoàn tất!

51 “Anh em tưởng rằng Thầy đến để ban hoà bình cho trái đất sao? Thầy bảo cho anh em biết: không phải thế đâu, nhưng là đem sự chia rẽ.

52 Vì từ nay, năm người trong cùng một nhà sẽ chia rẽ nhau, ba chống lại hai, hai chống lại ba.

53 Họ sẽ chia rẽ nhau: cha chống lại con trai, con trai chống lại cha; mẹ chống lại con gái, con gái chống lại mẹ; mẹ chồng chống lại nàng dâu, nàng dâu chống lại mẹ chồng.”

 

Giáo lý cho bài giảng Chúa nhật 20 Thường niên năm C

WHĐ (11/8/2025) - Để hỗ trợ các nhà giảng thuyết thuận tiện hơn trong việc thêm giáo lý vào bài giảng, Ban Biên tập xin được trích dẫn những điểm giáo lý phù hợp với các bài đọc Kinh Thánh của lễ Chúa nhật 20 Thường niên năm C theo sự hướng dẫn của Bộ Phụng tự và Kỷ luật các Bí tích.

Số 575-576: Chúa Kitô, dấu hiệu cho người đời chống báng

Số 1816: Người môn đệ can đảm làm chứng cho đức tin

Số 2471-2474: Làm chứng cho chân lý

Số 946-957, 1370, 2683-2684: Sự hiệp thông của chúng ta với các thánh

Số 1161: Các ảnh tượng thánh cho chúng ta thấy “ngần ấy nhân chứng đức tin như đám mây bao quanh” (Dt 12,1)

Bài Ðọc I: Gr 38, 4-6. 8-10

Bài Ðọc II: Dt 12, 1-4

Phúc Âm: Lc 12, 49-53

 

Số 575-576: Chúa Kitô, dấu hiệu cho người đời chống báng

Số 575. Vì vậy, một số việc làm và lời nói của Chúa Giêsu đã là “dấu hiệu cho người đời chống báng”[1] đối với giới lãnh đạo tôn giáo tại Giêrusalem, những người mà Tin Mừng thánh Gioan thường gọi là “người Do Thái”[2], hơn là đối với đại chúng dân Thiên Chúa[3]. Các liên hệ giữa Chúa Giêsu với nhóm Pharisêu không phải chỉ là bất đồng. Một số người Pharisêu đã báo cho Người biết mối nguy hiểm đang đe dọa Người[4]. Chúa Giêsu ca tụng một số người trong họ, ví dụ như vị kinh sư nói trong Mc 12,34, và nhiều lần Người đã dùng bữa tại nhà những người Pharisêu[5]. Chúa Giêsu xác nhận những giáo lý chung trong nhóm tôn giáo ưu tú này của dân Chúa: việc kẻ chết sống lại[6], các hình thức đạo đức (bố thí, ăn chay và cầu nguyện)[7], và thói quen gọi Thiên Chúa là Cha, tính chất trung tâm của giới răn mến Chúa yêu người[8].

Số 576. Đối với nhiều người Israel, Chúa Giêsu xem ra hành động nghịch với những định chế căn bản của dân Chúa chọn. Người có vẻ như:

– chống lại việc tuân phục Lề luật, trong toàn bộ các giới luật thành văn, và đối với nhóm Pharisêu, trong việc giải thích truyền khẩu;

– chống lại vị trí trung tâm của Đền thờ Giêrusalem, xét như nơi thánh, nơi duy nhất Thiên Chúa lưu ngụ;

– chống lại Đức tin vào Thiên Chúa duy nhất, Đấng không ai có thể được tham dự vào vinh quang của Ngài.

 

Số 1816: Người môn đệ can đảm làm chứng cho đức tin

Số 1816. Người môn đệ Đức Kitô không những phải gìn giữ đức tin và sống bởi đức tin, mà còn phải tuyên xưng, can đảm làm chứng và truyền bá đức tin: “Mọi tín hữu … phải sẵn sàng tuyên xưng Đức Kitô trước mặt người ta, và bước theo Người trên đường thập giá, giữa những cuộc bách hại mà Hội Thánh luôn luôn gặp phải”[9]. Việc phục vụ và làm chứng cho đức tin là những điều phải có để được cứu độ. “Phàm ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ tuyên bố nhận người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời. Còn ai chối Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ chối người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời” (Mt 10,32-33).

 

Số 2471-2474: Làm chứng cho chân lý

Số 2471. Trước mặt quan Philatô, Đức Kitô tuyên bố Người đã đến thế gian là để làm chứng cho chân lý[10]. Kitô hữu không được “hổ thẹn vì phải làm chứng cho Chúa” (2 Tm 1,8). Trong những trường hợp đòi phải làm chứng cho đức tin, Kitô hữu phải tuyên xưng đức tin một cách không úp mở, theo gương thánh Phaolô trước mặt các thẩm phán. Họ phải giữ “lương tâm không có gì đáng chê trách trước mặt Thiên Chúa và người ta” (Cv 24,16).

Số 2472. Bổn phận của các Kitô hữu là tham gia vào đời sống Hội Thánh, thúc đẩy họ hành động như những chứng nhân của Tin Mừng và chu toàn những nghĩa vụ phát xuất từ bổn phận đó. Làm chứng là lưu truyền đức tin bằng lời nói và việc làm. Làm chứng là một hành vi của đức công bằng nhằm thiết lập chân lý hoặc làm cho chân lý được nhận biết[11]:

Mọi Kitô hữu, dù sống ở đâu, đều phải lấy gương mẫu đời sống và chứng từ lời nói để biểu lộ con người mới, mà họ đã mặc lấy qua bí tích Rửa Tội, và biểu lộ sức mạnh của Chúa Thánh Thần, Đấng đã củng cố họ qua bí tích Thêm Sức[12].

Số 2473. Sự tử đạo là việc làm chứng cao cả nhất cho chân lý đức tin; đó là sự làm chứng cho đến nỗi phải chết. Vị tử đạo làm chứng cho Đức Kitô, Đấng đã chết và đã sống lại, mà họ được liên kết với Người bằng đức mến. Vị tử đạo làm chứng cho chân lý đức tin và đạo lý Kitô giáo. Vị tử đạo chịu chết bằng hành vi của đức can đảm. “Hãy để tôi trở nên mồi ngon cho ác thú, nhờ chúng mà tôi được đến với Thiên Chúa”[13].

Số 2474. Hội Thánh hết sức quan tâm thu thập các kỷ niệm về những vị đã làm chứng cho đức tin của mình cho đến cùng. Đó là Hạnh các vị Tử Đạo. Các hạnh này là những văn thư lưu trữ về Chân Lý được viết bằng máu:

“Những lãnh địa trần gian và các vương quốc đời này không ích gì cho tôi. Đối với tôi, thà chết trong Đức Kitô Giêsu, còn hơn được thống trị các lãnh địa của trái đất này. Tôi tìm kiếm Người, Đấng đã chết cho chúng ta; tôi khao khát Người, Đấng đã sống lại vì chúng ta. Tôi sắp được sinh ra…”[14].

“Con chúc tụng Chúa, vì Chúa đã xét con xứng đáng với ngày này và giờ này, để con được dự phần vào số các vị tử đạo…. Chúa đã thực hiện lời Chúa hứa, lạy Thiên Chúa, Đấng trung tín và không biết nói dối. Vì hồng ân này và vì tất cả mọi sự, con ngợi khen Chúa, con chúc tụng Chúa, con tôn vinh Chúa nhờ vị Thượng Tế vĩnh hằng trên trời là Chúa Giêsu Kitô, Con yêu dấu của Chúa. Nhờ Người, con tôn vinh Chúa cùng với Người trong Chúa Thánh Thần, bây giờ và cho đến muôn đời. Amen”[15].

 

Số 946-957, 1370, 2683-2684: Sự hiệp thông của chúng ta với các thánh

Số 946. Sau khi tuyên xưng: “Hội Thánh hằng có ở khắp thế này”, tín biểu các Tông Đồ thêm: “Các Thánh thông công”. Một cách nào đó, mục này là lời giải thích cho mục trước: “Hội Thánh là gì, nếu không phải là cộng đoàn của tất cả các Thánh?”[16]. Quả thật, Hội Thánh là sự hiệp thông của các Thánh.

Số 947. “Bởi vì tất cả các tín hữu là một thân thể duy nhất, nên điều thiện hảo của người này được truyền thông cho người khác…. Bởi đó, giữa những điều khác, … phải tin là có sự truyền thông những điều thiện hảo trong Hội Thánh. Thành phần chủ yếu là Đức Kitô, bởi vì Người là Đầu…. Do đó, điều thiện hảo của Đức Kitô được truyền thông … cho tất cả các chi thể; và sự truyền thông này được thực hiện qua các bí tích của Hội Thánh”[17]. “Thật vậy, Thần Khí duy nhất điều khiển Hội Thánh làm cho bất cứ điều gì được thu thập trong Hội Thánh, đều là của chung”[18].

Số 948. Vì vậy, thuật ngữ “các Thánh thông công” có hai nghĩa: “hiệp thông trong các thực tại thánh (sancta)” và “hiệp thông giữa những người thánh (sancti)”.

Sancta sanctis! (Các thực tại thánh cho những người thánh)” là lời chủ tế xướng lên trong nhiều phụng vụ Đông phương, lúc nâng cao Mình Máu Thánh trước khi cho rước lễ. Các Kitô hữu (sancti) được nuôi dưỡng bằng Mình và Máu Đức Kitô (sancta) để tăng trưởng trong sự hiệp thông của Chúa Thánh Thần (Koinônia) và truyền thông sự hiệp thông đó cho trần gian.

Số 949. Trong cộng đoàn tiên khởi ở Giêrusalem, các môn đệ “chuyên cần nghe các Tông Đồ giảng dạy, luôn luôn hiệp thông với nhau, siêng năng tham dự lễ bẻ bánh, và cầu nguyện không ngừng” (Cv 2,42).

Sự hiệp thông trong đức tin. Đức tin của các tín hữu là đức tin của Hội Thánh, được đón nhận từ các Tông Đồ, là kho tàng của sự sống, một kho tàng khi được truyền thông thì lại thêm phong phú.

Số 950. Sự hiệp thông các bí tích. “Quả vậy, hoa trái của tất cả các bí tích thuộc về hết mọi tín hữu; nhờ các bí tích này, giống như nhờ những mối dây thánh thiêng, họ được gắn liền và kết hợp với Đức Kitô, nhất là nhờ bí tích Rửa Tội, qua đó, như qua một cái cửa, họ tiến vào Hội Thánh. Các Giáo phụ giải thích rằng, ‘các Thánh thông công’ trong Tín biểu phải được hiểu là sự hiệp thông các bí tích…. Danh xưng [hiệp thông] này phù hợp với tất cả các bí tích, vì tất cả đều kết hợp chúng ta với Thiên Chúa…; tuy nhiên danh xưng ấy thích hợp hơn cho bí tích Thánh Thể, là bí tích thực hiện sự hiệp thông này”[19].

Số 951. Sự hiệp thông các đặc sủng: Trong sự hiệp thông của Hội Thánh, Chúa Thánh Thần “ban phát các ân sủng đặc biệt cho các tín hữu thuộc mọi bậc sống” để xây dựng Hội Thánh[20]. “Thần Khí tỏ mình ra nơi mỗi người một cách, là vì ích chung” (1 Cr 12,7).

Số 952. “Đối với họ, mọi sự đều là của chung” (Cv 4,32): “Kitô hữu thật sự không sở hữu một điều gì, mà không cho rằng đó là của chung cho mình cùng với tất cả những người khác; vì vậy họ phải mau mắn và sẵn sàng làm nhẹ bớt sự cùng khốn của những người túng thiếu”[21]. Kitô hữu là người quản lý tài sản của Chúa[22].

Số 953. Sự hiệp thông đức mến: Trong mầu nhiệm các Thánh thông công, “không ai trong chúng ta sống cho chính mình, cũng như không ai chết cho chính mình” (Rm 14,7). “Nếu một bộ phận nào đau, thì mọi bộ phận cùng đau; Nếu một bộ phận nào được vẻ vang, thì mọi bộ phận cũng vui chung. Vậy anh em, anh em là Thân Thể của Đức Kitô và mỗi người là một bộ phận” (1 Cr 12,26-27). Đức mến “không tìm tư lợi” (1 Cr 13,5)[23]. Việc nhỏ nhất trong các hành vi của chúng ta được làm trong đức mến đều sinh lợi ích cho mọi người, trong sự liên đới hỗ tương với tất cả mọi người, kẻ sống và kẻ chết, sự liên đới đó được đặt nên trong mầu nhiệm “các Thánh thông công”. Mọi tội lỗi đều làm tổn thương sự hiệp thông này.

Số 954. Ba tình trạng của Hội Thánh. “Cho tới khi Chúa ngự đến trong sự uy nghi của Người, có tất cả các Thiên thần với Người, và khi sự chết đã bị hủy diệt, mọi sự đều quy phục Người, thì trong số các môn đệ của Chúa, có những người đang tiếp tục cuộc lữ hành trên trần thế, có những người đã hoàn tất cuộc sống đời này và đang được thanh luyện, lại có những người đã được hiển vinh, đang chiêm ngưỡng ‘cách tỏ tường chính Thiên Chúa Tam Vị Nhất Thể, như Ngài là’”[24]:

“Tuy nhiên, tất cả chúng ta, theo mức độ và cách thức khác nhau, đều hiệp thông trong cùng một đức mến đối với Thiên Chúa và đối với người lân cận, và cùng hát lên bài ca chúc tụng vinh quang Thiên Chúa chúng ta. Thật vậy, tất cả những ai thuộc về Đức Kitô, có Thần Khí của Người, đều họp thành một Hội Thánh duy nhất và liên kết với nhau trong Người”[25].

Số 955. “Vì vậy, sự kết hợp giữa những người còn đi đường với các anh em đã yên nghỉ trong bình an của Đức Kitô không hề bị gián đoạn, mà trái lại, theo đức tin trường tồn của Hội Thánh, sự hợp nhất đó còn được tăng cường bằng việc truyền thông cho nhau những lợi ích thiêng liêng”[26].

Số 956. Sự chuyển cầu của các Thánh: “Vì được gắn bó mật thiết hơn với Đức Kitô, các Thánh trên trời củng cố toàn thể Hội Thánh một cách vững chắc hơn trong sự thánh thiện…. Các ngài không ngừng chuyển cầu với Chúa Cha cho chúng ta, trong khi dâng các công nghiệp các ngài đã lập được nơi trần thế nhờ Đấng Trung Gian duy nhất giữa Thiên Chúa và loài người là Đức Kitô Giêsu…. Nhờ vậy sự yếu đuối của chúng ta được giúp đỡ rất nhiều bằng sự quan tâm huynh đệ của các ngài”[27]:

“Anh em đừng khóc, bởi vì tôi sẽ có ích cho anh em hơn, ở nơi tôi sắp tới, hơn là lúc tôi ở đây”[28].

“Tôi muốn ở trên trời, để làm việc lành dưới thế”[29].

Số 957. Hiệp thông với các Thánh. “Chúng ta không chỉ kính nhớ các Thánh trên trời vì gương sáng của các ngài, nhưng hơn thế nữa, còn để sự hợp nhất của toàn thể Hội Thánh trong Thần Khí được tăng cường nhờ việc thực thi đức mến huynh đệ. Thật vậy, cũng như sự hiệp thông giữa những người đi đường đưa chúng ta tới gần Đức Kitô hơn, thì sự liên kết với các Thánh cũng kết hợp chúng ta với Đức Kitô, tự nơi Người, với tư cách là nguồn mạch và là Đầu, tuôn chảy mọi ân sủng và sự sống của chính dân Thiên Chúa”[30]:

“Quả vậy, chúng ta tôn thờ Đức Kitô vì Người là Con Thiên Chúa; và chúng ta yêu mến một cách chính đáng các vị Tử Đạo, xét như là những môn đệ và những người bắt chước Chúa, vì sự hết sức tốt lành của các ngài đối với Đấng là Vua và Thầy của mình; ước gì chúng ta được là bạn đồng hành và đồng môn với các ngài”[31].

Số 1370. Không những các chi thể của Đức Kitô còn ở trần gian, mà cả những vị đang hưởng vinh quang trên trời cũng được kết hợp với lễ tế của Đức Kitô: Hội Thánh dâng hy tế Thánh Thể trong sự hiệp thông với Đức Trinh Nữ Maria rất thánh, và nhớ đến ngài cũng như đến tất cả các Thánh nam nữ. Trong Thánh lễ, Hội Thánh một cách nào đó đứng dưới Thánh Giá, cùng với Mẹ Maria, kết hợp với lễ tế và lời chuyển cầu của Đức Kitô.

Số 2683. Những chứng nhân đã đi trước chúng ta vào Nước Thiên Chúa[32], nhất là những vị được Hội Thánh nhìn nhận là “các Thánh”, hiệp thông vào truyền thống sống động của việc cầu nguyện, bằng gương sáng đời sống, bằng việc lưu truyền các văn phẩm và bằng lời cầu nguyện hiện nay của các ngài. Các ngài đang chiêm ngưỡng Thiên Chúa, ca tụng Ngài và không ngừng chăm sóc những người còn ở trần gian. Các ngài, những vị đã đi vào “hưởng niềm vui” của Chúa mình, đã được đặt lên trông coi “nhiều việc”[33]. Sự chuyển cầu của các ngài là việc các ngài phục vụ kế hoạch của Thiên Chúa cách cao cả nhất. Chúng ta có thể và phải cầu nguyện để các ngài chuyển cầu cho chúng ta và cho toàn thế giới.

Số 2684. Trong mầu nhiệm các Thánh thông công, đã có nhiều đường hướng linh đạo phát sinh suốt dòng lịch sử Hội Thánh. Đặc sủng riêng của từng chứng nhân cho tình yêu Thiên Chúa đối với con người, có thể được truyền lại, như “thần trí” của ông Êlia được truyền lại cho ông Êlisê[34] và cho ông Gioan Tẩy Giả[35], để các môn đệ có thể tham dự vào thần trí ấy[36]. Một linh đạo nào đó cũng là kết tinh của những trào lưu phụng vụ và thần học khác nhau, và làm chứng cho sự hội nhập đức tin vào một môi trường nhân văn trong lịch sử. Các linh đạo Kitô giáo tham dự vào truyền thống sống động của việc cầu nguyện và là những hướng dẫn cần thiết cho các tín hữu. Các linh đạo này, tuy rất đa dạng, đều toả chiếu ánh sáng tinh tuyền và duy nhất của Chúa Thánh Thần.

“Thần Khí thật sự là nơi lưu ngụ của các Thánh. Thánh nhân cũng là nơi lưu ngụ riêng của Thần Khí, vì thánh nhân đã tự hiến để ở cùng Thiên Chúa và được gọi là đền thờ của Ngài”[37].

 

Số 1161: Các ảnh tượng thánh cho chúng ta thấy “ngần ấy nhân chứng đức tin như đám mây bao quanh” (Dt 12,1)

Số 1161. Tất cả các dấu chỉ của việc cử hành phụng vụ đều quy hướng về Đức Kitô: kể cả các ảnh tượng của Mẹ Thiên Chúa và của các thánh. Thật vậy, các ảnh tượng này nói về Đức Kitô, Đấng được tôn vinh nơi các ngài. Các ảnh tượng này cho thấy “ngần ấy nhân chứng đức tin như đám mây bao quanh” (Dt 12,1), các ngài đang tiếp tục tham dự vào công trình cứu độ trần gian và chúng ta được liên kết với các ngài, nhất là khi cử hành các bí tích. Qua ảnh tượng của các ngài, điều được mạc khải cho đức tin của chúng ta là, con người, được tạo dựng “theo hình ảnh Thiên Chúa”, cuối cùng được biến hình nên “giống như Thiên Chúa”[38], và cả các Thiên thần, là những vị đã được quy tụ lại trong Đức Kitô:

“Theo giáo huấn của các Thánh Giáo phụ được Thiên Chúa linh hứng, và theo truyền thống của Hội Thánh Công giáo (mà chúng ta biết rằng đó là truyền thống của Chúa Thánh Thần, Đấng chắc chắn đang ngự trong Hội Thánh), chung tôi ấn định với tất cả sự chắc chắn và chính đáng rằng, cũng như hình tượng cây Thánh Giá quý trọng và ban sự sống, các ảnh tượng đáng kính và thánh thiện, hoặc được vẽ và lắp ghép, hoặc bằng những chất liệu thích hợp khác, phải được đặt trong các thánh đường của Thiên Chúa, trên các bình thánh và y phục thánh, trên các bức tường và các bức hoạ, trong nhà và trên các đường phố: đó là ảnh tượng của Chúa Giêsu Kitô, là Thiên Chúa và là Đấng Cứu Độ chúng ta, cũng như ảnh tượng của Đức Bà tinh tuyền, là Mẹ thánh của Thiên Chúa, ảnh tượng của các Thiên thần đáng kính, của tất cả các Thánh và những người công chính”[39].

1. Suy niệm ( TGM Giuse Nguyễn Năng )

Suy niệm: Ðức Giêsu nói: “Thầy đến để gây chia rẽ”. Một câu nói xem ra nghịch lý, khó chấp nhận. Nhưng nếu phân tích sâu xa thì câu nói đó lại là một Chân Lý tuyệt vời. Hòa bình đích thực chỉ có sau khi đã quyết liệt chiến đấu để chọn lựa. Hòa bình chỉ có khi đã phân rẽ sự ác khỏi điều thiện, bóng tối ra khỏi ánh sáng... Nhờ ngọn lửa thanh tẩy bợn nhơ được loại bỏ để chỉ còn lại sự tinh tuyền trọn hảo.

Cầu nguyện: Lạy Chúa, để được sự bình an của Chúa trong cuộc sống, chúng con phải chấp nhận từ bỏ tội lỗi, từ bỏ hận thù, ghen ghét, ích kỷ... Xin Chúa thêm sức mạnh cho chúng con để chúng con can đảm, dứt khoát chọn lựa cho mình tình yêu chân chính và sự bình an vĩnh cửu của Chúa. Amen.

Ghi nhớ: “Thầy không đến để đem bình an, nhưng đem sự chia rẽ”.

 

2. Suy niệm (Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)

A- Phân tích (Hạt giống...)

Đoạn này có hai ý:

a/ Bằng hai hình ảnh “lửa” và “phép rửa”, Chúa Giêsu nói về tương lai sắp tới (cc 49-50):

- “Lửa” ám chỉ sự thanh luyện. Chúa Giêsu đến trần gian để thanh luyện trần gian, cho nên Ngài ước mong việc thanh luyện ấy sớm hoàn thành.

- “Phép rửa” ám chỉ cuộc khổ nạn sắp tới: việc thanh luyện ấy chỉ hoàn thành sau khi Ngài chịu nạn chịu chết và sống lại.

b/ Bằng hai hình ảnh “hoà bình” và “chia rẽ”, Chúa Giêsu kêu gọi người ta chọn lựa thái độ trước Phúc Âm của Ngài (cc 51-53): Nhiều người nghĩ rằng Đấng Messia là Đấng mang hoà bình đến (x. Is 9, 5). Chúa Giêsu xác nhận rằng đúng thực, sứ mạng của Ngài là một sứ mạng hoà bình (Is 9, 5tt; Dcr 9, 10; Lc 2, 14; Ep 2, 14-15). Nhưng Ngài thấy cần giải thích thêm: chữ “Hoà bình” có nhiều nghĩa: hoà bình kiểu thế gian và hoà bình của Thiên Chúa. Chúa Giêsu nói rằng Ngài đến thế gian không phải để đem hoà bình kiểu thế gian, mà là thứ hoà bình của Thiên Chúa. Thứ hoà bình của Thiên Chúa mà Chúa Giêsu mang đến, người ta chỉ sẽ nhận được sau khi người ta đã cố gắng chiến đấu để sống theo Phúc Âm của Ngài. Thực tế cho thấy là sứ vụ của Chúa Giêsu đã gặp chống đối, và Lời rao giảng của Ngài đã gây ra chia rẽ giữa những người tin và những người không tin, chia rẽ xảy ra ngay trong lòng một gia đình (Lc 2, 35: có chia rẽ, thì tâm tư người ta mới lộ ra).

B- Suy gẫm (...nẩy mầm)

1. Lời Chúa Giêsu nói về sứ mạng của Ngài cũng là một lời khuyến cáo các môn đệ Ngài: Sự kiện Nước Thiên Chúa đến, không phải để các môn đệ hưởng thụ cuộc sống bình an một cách thụ động. Họ sẽ hưởng bình an đấy, nhưng là bình an mà họ phải cố gắng chiến đấu mới đạt được, chiến đấu trong gian truân thử thách, chiến đấu với cả những người thân nhưng không cùng niềm tin với mình. Phaolô và Barnabê đã hiểu như thế, nên đã khuyên các tín hữu rằng: “Chúng ta phải chịu nhiều gian khổ mới được vào Nước Thiên Chúa” (Cv 14, 22).

2. Hòa bình Chúa ban là kết quả của những cố gắng để giải quyết tình trạng “chia rẽ”:

a/ Nơi bản thân mỗi người, chỉ có hòa bình thật khi không còn xung đột giữa cái tôi hướng thiện với cái tôi hướng ác;

b/ Nơi gia đình, nơi xã hội và bất cứ nơi nào cũng thế, chỉ có hòa bình thật khi mọi người đều một lòng một ý với nhau.

3. ”Nếu trong tương lai, chúng ta không ký kết được những hiệp ước vững chắc và thành thật bảo đảm cho một nền hòa bình đại đồng, thì nhân loại, hiện đang gặp nguy cơ trầm trọng dù có một nền khoa học kỳ diệu đi nữa, có lẽ cũng sẽ tiến đến thảm khốc, tới một giây phút mà nhân loại sẽ không biết hòa bình nào khác hơn là thứ hòa bình khủng khiếp của chết chóc.”

4. Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất, và Thầy những ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên!” (Lc 12, 49)

Mong ước của tôi là được nhận ra những khao khát của Chúa Giêsu trước khi bước vào cuộc Thương Khó: “Thầy ước mong phải chi lửa ấy - ngọn lửa yêu thương mà Ngài đã ném vào mặt đất - cháy bùng lên!”

Chúa Giêsu ơi, con cũng muốn sống những thao thức của Giêsu, bằng cuộc sống yêu thương, và dấn thân cho tình yêu. Xin giúp con Chúa nhé! (Hosanna)

 

3. Suy niệm (Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)

NGỌN LỬA TÌNH YÊU

A. DẪN NHẬP

Đức Giêsu hay có kiểu nói nghịch lý làm cho người ta ngạc nhiên khi mới nghe và chưa hiểu hết ý nghĩa tàng ẩn trong đó. Chẳng hạn trong bài Tin mừng hôm nay Đức Giêsu nói: “Thầy đã đến ném lửa vào trần gian… Các con tưởng rằng Thầy đến đem hoà bình cho trần gian? Thầy bảo cho các con biết: không phải thế đâu, nhưng là đem sự chia rẽ(Lc 12, 49.51). Nếu Đức Giêsu được gọi là “Hoàng tử của bình an”, hiền lành và khiêm nhường, không mang sự hoà bình cho trần gian mà chỉ đem đến sự chia rẽ. Như vậy Ngài muốn nói gì?

Đức Giêsu muốn nói cho chúng ta biết rằng sứ mạng của Ngài là xuống trần gian chịu chết, để đem ơn cứu rỗi đến cho mọi người và thanh luyện con người. Thi hành được sứ mạng đó không phải là dễ, vì những lời rao giảng của Ngài phải nói lên chân lý, và nói lên chân lý thì sẽ đụng chạm đến nhiều người đang chà đạp lên chân lý vì như người ta nói: “Sự thật mất lòng”. Tiên tri Giêrêmia trong bài đọc 1 hôm nay là hình bóng Đức Giêsu. Ông nói sự thật cho dân chúng, nhưng họ không muốn nghe, lại còn hành hạ và muốn giết chết ông. Đức Giêsu cũng phải đi theo con đường đó và Ngài muốn cho việc thi hành sứ mạng đó chóng hoàn tất.

Ngài đến để đem hoà bình cho nhân loại, nhưng không phải là thứ hoà bình ru ngủ của trần gian mà là thứ hoà bình thật của Thiên Chúa. Thứ hoà bình này chỉ có thể lãnh được khi người ta đã nỗ lực thi hành Lời Chúa và phải tôi luyện bằng thập giá. Vì thế, Lời rao giảng của Ngài sẽ gây chia rẽ giữa nhiều người, ngay những người trong một gia đình. Sở dĩ có sự chia rẽ là vì có người tin theo Chúa, có người không tin theo, lại còn chống đối nữa. Vậy là có sự chia rẽ giữa người tin và không tin. Đức Giêsu đòi chúng ta phải xác định lập trường, phải có sự lựa chọn: tin theo hay không tin theo. Nếu đã chấp nhận tin theo thì cũng phải chấp nhận con đường của Chúa đã đi: phải hy sinh tất cả để trung thành với Chúa.

B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA

+ Bài đọc 1: Gr 38, 4-10

Thời tiên tri Giêrêmia, dân Do thái phạm tội nhiều, nên Thiên Chúa để cho quân thù là đế quốc Babylon bao vây. Là người hiền lành, nhạy cảm, yêu quê hương, Giêrêmia phải tuân lệnh Thiên Chúa, đi nói những lời nguyền rủa trên dân mình, để khuyến khích họ ăn năn sám hối và quay về nương tựa vào Chúa, nhưng họ cứ tiếp tục đi theo con đường sai lầm đó. Ông còn bị cáo giác là chủ bại và cộng tác với quân địch. Vì những lời nói thật đó, ông bị kết án vứt xuống giếng sâu, nhưng Chúa đã cho người cứu vớt ông.

Hôm qua cũng như hôm nay, vị tiên tri phải trải qua kinh nghiệm xương máu, để biết được rằng “Sự thật thì mất lòng”. Đó là số phận của nhà tiên tri, người làm chứng về sự thánh thiện tuyệt đối của Thiên Chúa. Ngoài ra, việc Giêrêmia bị bỏ xuống giếng là hình ảnh tử nạn của Đức Giêsu, và việc Giêrêmia được thoát chết là hình ảnh của Chúa sống lại.

+ Bài đọc 2: Dt 12, 1-4

Trong khi chúng ta dấn thân cho Nước Chúa, được nghe đoạn thư gửi cho người Do thái sau đây, chúng ta cảm thấy được an ủi và nâng đỡ rất nhiều. Hồi ấy, các Kitô hữu gốc Do thái đang gặp phải rất nhiều khó khăn. Một mặt họ bị các đồng đạo Do thái cũ thù ghét và coi họ là những người phản đạo, mặt khác họ cũng bị bách hại bởi đế quốc Rôma.

Thánh Phaolô đôi khi ưa dùng ngôn ngữ thể thao, Ngài ví cuộc sống của Kitô hữu như một cuộc chạy đua, cần phải có nhiều sức dẻo dai, mắt nhìn thẳng vào Đức Giêsu, chính Ngài cũng gặp phải muôn vàn khó khăn, nhưng đã kiên trì chiến đấu và cuối cùng đã chiến thắng tất cả. Hãy noi gương Ngài và dựa vào sự trợ giúp của Ngài mà chiến đấu.

+ Bài Tin mừng: Lc 12, 49-53 - Bài Tin mừng hôm nay có hai ý chính:

a) Đức Giêsu có sứ mạng xuống trần gian để thanh luyện trần gian, và Ngài ước cho việc thanh luyện ấy sớm hoàn thành. Ngài cũng báo trước sẽ phải qua một cuộc khổ nạn, và việc thanh luyện ấy chỉ hoàn thành sau khi Ngài chịu nạn chịu chết và sống lại.

b) Đức Giêsu dùng hai hình ảnh “hoà bình” và “chia rẽ”, để kêu gọi người ta phải có thái độ lựa chọn trước Tin mừng của Ngài. Sứ mạng của Ngài là chịu chết để chuộc tội cho loài người. Ngài tự hiến mình chịu chết, không còn lựa chọn nào khác, khi Ngài muốn hoàn thành đến cùng sứ mạng được giao phó. Nhưng một quyết định như thế càng thêm những chống đối và sẽ gây chia rẽ trong chính lòng dân tộc được chọn: một số người sẽ hoán cải, một số người khác thì không, một số người tin theo, một số người không. Lời rao giảng của Ngài sẽ gây chia rẽ giữa những người tin và những người không tin, chia rẽ còn xảy ra ngay trong lòng một gia đình.

C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA: Ngọn lửa tình yêu bùng cháy

I. ĐỨC GIÊSU ĐEM LỬA XUỐNG TRẦN GIAN

1. Điều Đức Giêsu muốn nói

Khi đọc bài Tin mừng hôm nay, chúng ta không khỏi thắc mắc: Nếu khẳng định Đức Giêsu là “Hoàng tử của hoà bình”, người ta sẽ nói sao trước lời tuyên bố thẳng thừng của Ngài về chính mình: “Thầy đến đem lửa xuống trần gian. Thầy đến không phải để đem hoà bình, nhưng là đem sự chia rẽ?” Làm sao có thể hiểu được khi một người vốn tự xưng là “hiền lành và khiêm nhường”, lại gây nên sự xáo trộn, gây nên nỗi phân ly trong gia đình, một cấu trúc cần được hiệp nhất hơn bất cứ một cấu trúc nào hay tổ chức nào trên thế giới?

Người ta phải hiểu thế nào câu nói của Đức Giêsu: “Thầy đến đem lửa xuống trần gian và Thầy muốn sao lửa đó được cháy lên!” Vậy lửa Đức Giêsu đem đến trần gian là thứ lửa nào?

2. Lửa trong Thánh kinh

Trong Thánh kinh, lửa được dùng để chỉ ý nghĩa của hai khía cạnh tích cực và tiêu cực: ngọn lửa ở thiên đàng và ở hỏa ngục. Ngọn lửa là hình ảnh của sự hiện diện thiêng thánh của Thiên Chúa khi ông Maisen gặp gỡ Ngài giữa bụi gai đang cháy (Xh 3, 2), hay cột lửa đã hướng dẫn dân Do thái trong sa mạc (Xh 13, 21), và ngọn lửa từ trời xuống thiêu huỷ thành Sôđôma và Gômôra (St 19, 24).

Sức mạnh của Lời Chúa như lửa nơi miệng tiên tri Giêrêmia (Gr 5, 14), và ngọn lửa tiên tri Isaia nhìn thấy trong đền thờ đã thanh tẩy môi miệng ông (Is 6, 6) trở nên thanh khiết, để ngài loan báo sứ điệp cho dân chúng. Tiên tri Êlia được ví như ngọn lửa, lời giảng của Ngài như đuốc cháy (Hc 48, 1).

Ngọn lửa của thần khí đậu trên các Tông đồ vào ngày lễ Ngũ tuần (Cv 2, 3). Mưa lửa từ trời xuống như một phần của sự phán xét trong ngày tận cùng của thế giới (Lc 17, 29). Lửa là những thử thách (1Pr 4, 12).

Trong bài Tin mừng hôm nay (Lc 12, 49-53), Đức Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Thầy đã đến đem lửa xuống thế gian, và Thầy mong muốn biết bao cho lửa cháy lên” (Lc 12, 49). Tôi tin rằng lửa mà Luca muốn nói ở đây chính là “ngọn lửa của thần khí” đã được ban xuống trên các Tông đồ trong ngày lễ Ngũ tuần (Cv 2, 3-4) với sức mạnh và tình yêu Thiên Chúa, để đi rao truyền Tin mừng khắp muôn dân (Cv 1, 8). Ngọn lửa của thần khí thanh luyện linh hồn chúng ta khỏi sự ích kỷ và kiêu căng, nguồn gốc gây ra tất cả mọi sự thù nghịch và báo oán (Nguyễn Văn Thái, Sống Lời Chúa giữa dòng đời, năm C, tr 282-283).

Đức Giêsu mong ước “ban thần khí” cho thế gian. Ngài nói rằng đó là nhiệm vụ duy nhất của Ngài: “Thầy đến vì việc đó”. Chúng ta hãy thử tưởng tượng Đức Giêsu như một người đang ước mong, mang trong mình một dự án lớn lao. Đức Giêsu hăng say với dự án đổi mới toàn thể địa cầu. Lấy lại hình ảnh ấy, một bài ca hiệp lễ hát rằng: “Là kẻ ăn mày lửa, tôi nắm tay Chúa trong tay tôi, như người ta cầm trong tay mình ngọn lửa cho mùa đông và Chúa trở thành đám cháy thiêu đốt thế gian”.

Đức Giêsu trở thành một sức mạnh nhiệt thành mới mẻ cho nhiều người hôm nay. Ở giữa những việc tầm thường hằng ngày, chúng ta có thể đốt lên “ngọn lửa nồng nàn của tình yêu”.

3. Mâu thuẫn giữa hòa bình và chia rẽ

Đức Giêsu nói: “Các con tưởng Thầy đến để đem sự bình an đến thế gian ư? Không phải thế đâu, Thầy đến để đem sự chia rẽ”. Với tư cách là một người hiền lành và khiêm nhường trong lòng, làm sao Đức Giêsu đã đến trần gian để gây chia rẽ và xáo trộn? Tuy nhiên, nhiều khi vì Ngài mà xáo trộn và chia rẽ xảy ra.

Chúng ta cần hiểu rằng: bằng hai chữ hoà bìnhchia rẽ, Đức Giêsu kêu gọi người ta chọn lựa thái độ trước Tin mừng của Ngài (Lc 51-53). Nhiều người nghĩ rằng Đấng Messia là Đấng mang hoà bình đến (x. Is 9, 5), Đức Giêsu xác nhận là đúng thực, sứ mạng của Ngài là một sứ mạng hoà bình (Is 9, tt; Dcr 9, 10; Lc 2, 14; Ep 2, 14-15). Nhưng Ngài thấy cần giải thích thêm: chữ “hoà bình” có nhiều nghĩa: hoà bình kiểu thế gian và hoà bình của Thiên Chúa. Đức Giêsu nói rằng: Ngài đến thế gian không phải để đem hoà bình kiểu thế gian, mà là thứ hoà bình của Thiên Chúa. Thứ hoà bình của Thiên Chúa mà Đức Giêsu mang đến, người ta chỉ sẽ nhận được sau khi người ta đã cố gắng chiến đấu để sống theo Tin mừng của Ngài.

Thực tế cho thấy là sứ vụ của Đức Giêsu đã gặp chống đối, và Lời rao giảng của Ngài đã gây chia rẽ giữa những người tin và những người không tin, chia rẽ xảy ra ngay trong lòng một gia đình (Carôlô, Hạt giống nảy mầm, Chúa nhật năm C, tr 141).

Dù Đức Giêsu rất hiền lành, nhưng vì sứ mạng, Ngài phải nói thẳng nói thật và do đó gây nên chống đối và chia rẽ. Ngài giảng dạy về lòng thương xót của Thiên Chúa đối với những người tội lỗi, lời giảng này làm cho những người tội lỗi tin theo Ngài, nhưng lại khiến những người biệt phái chống đối Ngài. Ngài kêu gọi con người đừng bám vào kho tàng của cải đời này, mà tìm kho tàng không hư nát trong Nước trời. Lời giảng này khích lệ những người nghèo, nhưng lại làm cho những người giàu nổi giận v.v… Trong Tin mừng không thiếu gì những lời nói chói tai như thế, nhưng Đức Giêsu cũng cứ nói, vì “thuốc đắng đã tật”.

II. ĐỨC GIÊSU ĐÓN NHẬN SỰ CHỐNG ĐỐI

1. Thao thức mãnh liệt của Đức Giêsu

Khi nói về Đức Giêsu, thường chúng ta chỉ chú trọng vào thiên tính mà quên đi nhân tính của Ngài. Vì thế mà không thấy tính gần gũi, dễ thương, dễ mến cách tuyệt vời của Ngài. Nguyên về mặt nhân bản, Đức Giêsu quả là một con người đặc biệt. Chúng ta đã từng thấy Đức Giêsu nhạy cảm như thế nào, khi Ngài chạnh lòng thương trước đám đông, khi Ngài xúc động khóc trước mồ Lazarô. Bài Tin mừng Giáo hội đọc trong phụng vụ hôm nay, giúp chúng ta khám phá thêm về Đức Giêsu: cùng với một tâm hồn tinh tế và nhạy cảm ít ai có, Ngài còn có một hệ thần kinh thép và trong lòng ấp ủ những hoài bão lớn lao: “Thầy đã đem lửa vào thế gian, và Thầy những ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên! Thầy còn có một phép rửa phải chịu, và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi việc này hoàn tất”.

Hoài bão của Đức Giêsu là gì, nếu không phải là biến đổi thế giới này thành trời mới đất mới? Thao thức của Đức Giêsu là gì, nếu không phải là thực hiện kế hoạch của Thiên Chúa là xây dựng Nước Thiên Chúa, Vương quốc và Triều đại của Thiên Chúa trong mỗi tâm hồn, mỗi cộng đồng, mỗi xã hội con người? Trời mới đất mới là không gian trong đó con người vui hưởng hạnh phúc thật là nhận biết, tôn thờ Thiên Chúa và yêu thương nhau. Nước Thiên Chúa, Vương quốc và Triều đại của Thiên Chúa là thế giới của Sự sống, của Yêu thương, của Bình an và Hoan lạc.

Để thực hiện hoài bão lớn lao và cao đẹp ấy, Đức Giêsu sẵn sàng chấp nhận mọi hy sinh mất mát, thậm chí cả sự huỷ diệt bản thân mình. Hơn nữa, Ngài còn nóng lòng mong đợi cuộc khổ nạn mau tới, như mong đợi những ngày tốt đẹp, tuyệt vời nhất của đời mình.

2. Tiên tri Giêrêmia là hình bóng Đức Giêsu

Bài đọc 1 hôm nay mô tả cuộc bách hại tiên tri Giêrêmia. Các Kitô hữu luôn coi ông như một hình bóng của Đức Giêsu. Ông là tiên tri ngay thời còn nhỏ tuổi. Ông sống ơn gọi của mình trong một thời kỳ đầy biến động. Người ta chứng kiến sự thất bại của Israel, sự tàn phá thành Giêrusalem và đền thờ. Ông là lương tâm của đất nước ông. Ông thương yêu tha thiết dân tộc ông và không bao giờ đánh mất niềm tin vào quyền năng của Thiên Chúa cứu chuộc dân Ngài. Trước những lời nói tiên tri chân thật của ông, nhiều người thù ghét ông và tìm cách giết hại ông. Nhưng cuối cùng ông đã được cứu.

Đức Giêsu cũng thế: ngay từ những trang đầu của Tin mừng chúng ta đã thấy Đức Giêsu bị các nhà lãnh đạo đương thời bấy giờ đối xử như thế nào. Ngài đến với những lời chân thật, hằng sống, nhưng người nhà không tiếp rước Ngài, vì cho rằng Ngài là mối nguy cơ đe doạ địa vị, quyền lợi tôn giáo, xã hội và chính trị (dĩ nhiên bao gồm cả kinh tế) của họ. Thật ra Ngài chỉ là “tiêu chuẩn” để con người chọn lựa: theo và đón nhận hoặc không theo và từ chối Thiên Chúa. Người ta không có quyền không chọn lựa! Nhưng người ta có quyền chọn không đón nhận Đức Giêsu là quà tặng của Thiên Chúa tình thương. Và chính do chọn lựa này mà mỗi người mỗi ngả.

3. Vì Tin mừng, phải chấp nhận chống đối

Trong bài Tin mừng, Đức Giêsu đã vạch ra điều sẽ dẫn Ngài đến cái chết, và những người môn đệ bước theo Ngài cũng sẽ phải gặp đủ thứ đụng chạm xung khắc (Mt 10, 22). Đức Giêsu đã bị chết không chỉ vì những lời rao giảng yêu thương, nhưng còn vì Tin mừng tự do của Ngài đã xung khắc với các nhà cầm quyền tôn giáo và chính trị. Họ coi Ngài chỉ là con người gây rối, và họ nhìn thấy Ngài chỉ là một sự đe dọa cho những địa vị và quyền hành của họ.

Không phải Đức Giêsu không muốn bình an vì Ngài là “Hoàng tử của bình an”, nhưng khi Ngài bênh vực cho những giá trị tinh thần, phục vụ cho công lý và giải phóng nhân loại khỏi những ràng buộc của tội lỗi, thì chắc chắn phải đụng chạm với quyền lực đang muốn duy trì chúng lại.

Đức Giêsu bị người ta ghen ghét. Lòng ghen ghét không đơn giản chút nào, nhiều khi nó rất phức tạp khó lường. Không phải người ta chỉ ghét những điều xấu, người ta có thể ghét cả những điều tốt nào không phù hợp với người ta. Thí dụ kẻ nói dối ghét người nói thật, kẻ buôn gian bán lận ghét người buôn bán thật thà.

Chính vì thế mà Đức Giêsu khuyến cáo các Kitô hữu phải chấp nhận bị ghét, có thể bị giết bởi chính những người thân của mình và ngay trong gia đình mình: “Từ nay 5 người trong một nhà sẽ chia rẽ nhau, 3 chống lại 2 và 2 chống lại 3. Cha chống đối con trai và con trai chống đối cha. Mẹ chống đối con gái và con gái chống đối mẹ…”

Tình trạng này đã xảy ra trong Giáo hội sơ khai và vẫn xảy ra luôn mãi. Lịch sử các vị tử đạo đã chứng minh: những người theo đạo thường bị chính quyền hoặc đồng đạo mình ghét bỏ. Hoặc là trong một gia đình ngoại giáo, có một người trở lại đạo để kết hôn với người có đạo chẳng hạn, cha mẹ không bằng lòng. Thế là có sự xung khắc giữa cha mẹ và chính người con của mình.

Truyện: Chấp nhận bị chửi

Trong một buổi huấn đức tại Đại chủng viện Mundelein vào khoảng năm 1992, Đức cố Hồng y Joseph Bernadin của Tổng giáo phận Chicago đã tâm sự rằng: từ ngày ngài về lãnh trách nhiệm ở Chicago, mỗi ngày đều đặn, không sót một ngày, có một lá thư gửi đến chửi ngài là “son of bitch!” (chó đẻ!) Vì sao? Vì ngài theo giảng huấn của Giáo hội chống lại các thứ tệ đoan xã hội, làm mất quyền lợi của bọn tư bản vật chất!

Đức tin và những giá trị tôn giáo đặt chúng ta vào tư thế đụng chạm, xung khắc với xã hội. Đó là lý do tại sao Đức Giêsu đã nói: “Các con tưởng rằng Thấy đến để đem sự bình an đến cho thế gian ư? Thầy bảo thật các con: không phải thế, nhưng Thầy đến để đem sự chia rẽ(Lc 12, 51). Đó là những sự thù ghét đáng chấp nhận, vì nếu không chấp nhận, thì có nghĩa là phản bội lý tưởng Tin mừng của mình.

III. ĐỨC GIÊSU ĐÒI SỰ LỰA CHỌN CỦA TA

1. Kitô hữu phải lựa chọn

Nếu đặt câu hỏi: là người Kitô hữu, bạn đã lựa chọn Đức Kitô và đạo của Ngài chưa? Chắc có người cho là thừa và có thể là một câu hỏi ngớ ngẩn, vì khi đã được chịu phép rửa tội chúng ta đã thề hứa bỏ ma quỉ mà chỉ phụng sự một mình Thiên Chúa, tin theo Đức Giêsu Kitô, do đó mới được mang danh là “Kitô hữu”. Kitô hữu là người thuộc về Đức Kitô, và được mang tên của Ngài.

Đồng ý vậy, đã là Kitô hữu thì dĩ nhiên chúng ta đã chọn Đức Giêsu và đạo của Ngài rồi, nhưng không phải chọn một lần là đủ, là xong. Mỗi ngày, mỗi tuần, mỗi tháng, mỗi giai đoạn của cuộc đời chúng ta phải chọn lại. Chọn lại là kiểm điểm xem chúng ta đã thực sự chọn lựa Chúa chưa, vì nhiều khi, trong nhiều tình huống chúng ta sống theo thế gian, xác thịt và ma quỉ mà chúng ta không ý thức. Để kiểm chứng lại sự chọn lựa của chúng ta, hằng ngày chúng ta phải đặt cho mình một câu hỏi: “Đối với tôi, Đức Giêsu là ai?” Chắc chúng ta sẽ thưa được Đức Giêsu là thế nọ, thế kia… nhưng thể hiện chứng minh những lời ấy thì không dễ.

2. Chọn lựa phải dứt khoát và hiệu quả

Cuộc sống con người hiện nay quá phức tạp và đa đoan khiến cho tâm tư bị phân tán, xé mỏng – ý chí và nghị lực cũng vì đó mà suy yếu. Một đội quân mạnh cũng dễ gì đánh thắng cùng một lúc 3, 4 mặt trận, phải có tinh thần mạnh mẽ mới vào được Nước trời (Mt 11, 12).

Các thánh Tử đạo đã can đảm thực hiện Lời Chúa (Mc 8, 38; Lc 9, 26). Lời Ngài đâu phải không rõ ràng hoặc chúng ta có thể thực hành hay không là tuỳ ý? Tình yêu và chân lý luôn đòi hỏi sự lựa chọn dứt khoát, mạnh mẽ. Dù phải hy sinh – không thể vừa muốn một đời sống dễ dãi, nhàn hạ (hay lười biếng), đồng thời lại muốn vào Nước trời. Hai cái muốn đó làm sao có thể đi đôi với nhau? (Mt 10, 36t) Chính Đức Kitô còn không sống theo ý Ngài (Mt 4, 4; Ga 4, 34). Thế nên khi dứt khoát chọn Đức Kitô, ta phải nỗ lực sống theo Lời Ngài và đồng thời luôn vững tin vào tình yêu và sự quan phòng của Ngài (Mt 6, 25t; Lc 12, 22t).Truyện: Thánh nữ Perpetua

Perpetua thuộc gia đình quí tộc, bị bắt vì đạo. Cha của nàng vẫn là dân ngoại, thuyết phục nàng bỏ đạo. Chỉ vào chiếc bình, nàng lễ phép nói với cha: “Thưa cha, người ta có thể gọi vật này bằng một cái tên nào khác hơn là cái bình không? Đối với con cũng thế, con không thể cho mình một cái tên nào khác ngoài danh hiệu là Kitô hữu”. Tức quá, ông đánh đập nàng tàn nhẫn, rồi bỏ đi nhiều ngày không tới. Perpetua có một đứa con đang bú, rất khổ vì phải xa con. Đứa bé kiệt sức nên người ta đưa lại cho mẹ nó, và nàng quên hết đau khổ vì có con bên cạnh.

Vì biết con gái mình sắp bị án tử, người cha lại đến với những lời thảm thiết: “Con ơi, hãy thương đến mái tóc bạc của cha, hãy nhớ đến đôi tay cha đã dưỡng nuôi con. Hãy nhớ tới mẹ con, anh em con và đến con nhỏ của con nữa, nó sống làm sao nếu không có con. Con hãy bỏ đạo, bỏ đi điều đã làm cho chúng ta mất tất cả”. Tuy rất cảm động và đau khổ, Perpetua chỉ nghẹn ngào trả lời: “Thưa cha, tại tòa án sẽ xảy ra điều Chúa muốn, bởi vì chúng ta không thuộc về mình”. Người cha còn cho đem đứa trẻ đến năn nỉ: “Con hãy thương đến đứa con nhỏ của con”.

Tuy nhiên trước toà án, cùng với các bạn khác, Perpetua đã công khai tuyên bố trung thành với Chúa và bằng lòng hy sinh tất cả.

Mỗi người tin Chúa phải quyết định hoặc yêu mến gia đình hơn hoặc yêu Chúa Giêsu hơn. Bản chất của Kitô giáo là phải đặt sự trung thành với Chúa Giêsu lên trên tất cả các sự trung thành khác của thế gian. Người ta phải sẵn sàng coi mọi sự như thua lỗ vì cớ cao trọng tuyệt đối của Chúa Giêsu.

3. Lựa chọn và Thập giá

Đức Giêsu đã nói: “Thầy còn một phép rửa phải chịu, và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi việc này hoàn tất”. Một phép rửa mới đang chờ đợi Đức Giêsu: tử đạo, cái chết! Đức Giêsu quả quyết rõ ràng: nếu chính Ngài phải trải qua cơn thử thách, thì những ai theo Ngài cũng sẽ gặp thử thách trên bước đường họ đi.

Nếu Ngài đến đem bình an của Đấng Thiên Sai mà các tiên tri đã công bố (Is 9, 5-6; Mk 5, 4; Lc 2, 13) thì đây không phải là sự bình an dễ dãi do các tiên tri giả loan báo, sự bình an mà con người không ngừng mơ tưởng; nhưng là bình an Nước trời mà người ta chỉ đạt được qua thập giá. Mỗi người được mời lựa chọn thái độ của mình đối với Đức Giêsu, hoặc theo Ngài, hoặc chống Ngài như ông Simêon đã nói tiên tri (Lc 3, 35).Truyện: Họ đã chọn một phép rửa

Trong cuộc sống hằng ngày chúng ta thấy có biết bao gương sáng của những vị anh hùng. Họ mang lửa nhiệt tình can đảm trong tim, để làm chứng cho sự thật Phúc Âm. Họ cũng đã phải chịu “một phép rửa” của đau khổ như Đức Giêsu đã chịu.

Chẳng hạn như cựu Tổng thống Nam Phi Nelson Mendela, người được giải thưởng Nobel về Hoà bình, đã bị tù 27 năm vì đấu tranh chống lại nạn kỳ thị chủng tộc ở Nam Phi. Yitzak Rabin, cựu thủ tướng Do thái, bị ám sát chết vì lập trường hoà bình của mình. Đức Tổng Giám mục Oscar Romero ở El Salvado bị bắn chết lúc dâng thánh lễ, vì bảo vệ người nghèo chống lại quyền lực. Và Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã bị ám sát hụt, như một hậu quả của những giá trị Ngài bênh vực.

Chúng ta có thể sống ung dung để tránh né “ngọn lửa” thanh luyện mà Đức Giêsu đề cập tới không? Nếu Đức Giêsu đã nịnh hót đám đông, và chỉ nói với họ những lời “dễ nghe”, hẳn Ngài đã trở nên một người được quần chúng ưa thích. Nhưng Ngài đã chọn cách làm cho quần chúng bối rối. Bởi lẽ họ cần có người làm cho họ phải bối rối.

Chúng ta sẽ phản bội Tin mừng, nếu chúng ta giản lược nó thành một sứ điệp dịu dàng, từ tốn cho tất cả mọi người không cần biết đến những sự khác nhau giữa người giàu và người nghèo, giữa người có quyền và người cùng khổ, giữa người tốt và người xấu. Một Tin mừng nhạt nhẽo như thế không thể nào thành men làm dậy bột thế gian.

Có một xu hướng muốn “thuần hóa” Tin mừng, giản lược nó thành những lời hay ý đẹp và những kinh nghiệm an toàn dễ chịu. Khi điều ấy xảy ra thì lửa tàn lụi, men mất hết sức mạnh, muối mất hết vị, ánh sáng trở nên mù mờ. Nếu chúng ta sống như vậy, e rằng đến ngày sau hết Đức Giêsu sẽ đem “ngọn lửa phán xét” từ trời xuống mà phán rằng: “Ngày ông Lót ra khỏi Sôđôma, thì Thiên Chúa khiến mưa lửa và diêm sinh từ trời đổ xuống tiêu diệt tất cả. Sự việc cũng sẽ xảy ra như thế, ngày Con Người được mạc khải” (Lc 17, 29).

Hãy làm cho ngọn lửa nhiệt tình bùng cháy lên như thánh Phanxicô Assisi đã làm. Ngài đã dám lột bỏ hết mọi sự giàu sang nhung lụa, trả lại cho người cha trần thế, để chỉ chú tâm kiếm tìm các giá trị thiêng liêng nơi người Cha trên trời.Truyện: Ozanam, ngọn lửa nhiệt tình

Năm 1843, thành phố Paris đang bị xáo trộn, đạo Công giáo bị đe doạ, các cơ sở tôn giáo bị phá phách. Tại Lyon, bọn thợ thuyền cũng kéo cờ đỏ, hát những bài phạm đến Chúa và phản đạo. Năm ấy Ozanam học luật tại Paris, dầu còn thanh niên, cậu đã dùng ngòi bút và việc bác ái để phản công. Cậu siêng năng đọc Phúc Âm, rước lễ. Cậu thụ giáo với giáo sư Ampère về học thức và đạo đức. Và cậu mạnh bạo bênh vực Giáo hội. Với Ozanam các sinh viên, trước đây rụt rè lo sợ, bây giờ mạnh bạo. Các giáo sư đại học cũng phải kiêng nể Công giáo. Cậu tổ chức các buổi diễn thuyết làm sống lại đạo Công giáo. Về phía dân chúng, cậu đã cùng 6 anh em khác lập hội Bác ái Vinh Sơn giúp đỡ các người nghèo khổ. Hồi 18 tuổi, cậu đã thề: “Nhất định hy sinh đến thí mạng cho dân nghèo”. Đồng thời với Ozanam, Montalembert tranh đấu cho tự do giáo dục của Giáo hội, tại nghị trường. Dù là giáo sư đại học, Ozanam vẫn hàng tuần đi các khu nghèo khó, để dạy giáo lý cho những người công nhân nghèo khổ. Ngày nay Giáo hội cũng cần nhiều tâm hồn có lửa nhiệt tình như Ozanam.

 

4. Suy niệm (Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.)

MONG LỬA BÙNG LÊN

Cháy rừng là chuyện trước đây tương đối hiếm,

nay càng lúc càng thường xuyên hơn và dữ dội hơn.

Cháy rừng xảy ra ở mọi châu lục, nhất là châu Mỹ.

Năm 2021, có gần hai trăm ngàn vụ cháy ở Brazil.

Hàng triệu mẫu đất rừng bị hư hoại.

Nhà cửa bị thiêu rụi, người người phải sơ tán.

Khí hậu biến đổi, trái đất nóng lên chưa từng thấy.

Chỉ một tia lửa nhỏ cũng làm cả cánh rừng bốc cháy.

Trong bài Tin Mừng hôm nay,

Đức Giêsu nói: “Thầy đã đến ném lửa trên trái đất

và Thầy những ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên.”

Dĩ nhiên thứ lửa mà Ngài muốn nói

không phải là lửa của những đám cháy rừng hiện nay,

cũng không phải là thứ lửa để trừng phạt hay tiêu diệt.

Đã có lần hai môn đệ thân tín muốn gọi lửa từ trời

để thiêu hủy một làng người Samari không đón tiếp họ,

nhưng Đức Giêsu đã không cho (Lc 9, 54-55).

Gioan Tẩy giả nghĩ Đấng Mêsia là Đấng đến để phán xét.

Ngài sẽ chặt cây sinh trái xấu và quăng vào lửa,

sẽ bỏ thóc lép vào lửa cho cháy tiêu (Lc 3, 9.17).

Nhưng Đức Giêsu không là Mêsia theo lối nghĩ của Gioan.

Ngài không nhổ và đốt cỏ lùng ngay lập tức (Mt 13, 30).

Khi đi rao giảng Tin Mừng Nước Trời,

Đức Giêsu mang nhiều ước mơ.

Trên đường lên Giêrusalem để chịu khổ nạn,

Đức Giêsu đã coi sứ vụ của Ngài là ném lửa trên mặt đất.

Và Ngài ước mơ ngọn lửa ấy bùng lên khắp nơi (Lc 12, 49).

Vào Lễ Ngũ Tuần, ước mơ này bắt đầu được thực hiện.

Những lưỡi giống như lửa đậu xuống trên từng người.

Lúc đó, ai nấy đều được đầy tràn Thánh Thần (Cv 2, 1-4).

Có thể nói, lời của Gioan Tẩy giả đã ứng nghiệm (Lc 3, 16):

“Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần và lửa.”

Khoảng một trăm hai mươi người đã có mặt hôm đó

để trải qua kinh nghiệm về lửa của Thánh Thần (Cv 1, 15)

Kinh nghiệm ấy vẫn được tiếp tục qua dòng thời gian.

Ngọn lửa của Chúa Giêsu vẫn được chuyển đến mọi người,

cho đến khi nào cả mặt đất bừng sáng

và giấc mơ của Chúa được thực hiện.

Khi tiến về Giêrusalem, Đức Giêsu thấy lòng mình khắc khoải.

Ngài biết những gì đang chờ mình ở đó.

Ngài gọi đó phép rửa mà Ngài phải chịu.

Phép rửa này khác với phép rửa ở sông Giođan

vì nó sẽ dìm Ngài thật sâu trong khổ nhục và cái chết.

Đức Giêsu không chịu phép rửa này một mình.

“Các anh có chịu được phép rửa Thầy sắp chịu không?”

Đức Giêsu đã hỏi Giacôbê và Gioan như thế (Mc10, 38).

Và Ngài cũng hỏi từng người chúng ta như thế.

Chúng ta nên một với Ngài nhờ cái gật đầu ưng thuận.                              

                                                                                                                                                                                                                                           

Đức Giêsu đã chịu phép rửa và không còn khắc khoải.

Nhưng vẫn còn đó bao ước mơ của Ngài.

Chúng ta phải ước mơ như Chúa Giêsu đã ước mơ,

và thực hiện những ước mơ còn dang dở của Chúa.

Chúng ta phải là người nhóm lửa, giữ lửa và chuyển lửa.

Lửa của lòng nhiệt thành truyền giáo, lửa của tình yêu,

lửa của Chúa Giêsu và Thánh Thần.

Thế giới hôm nay thừa cháy rừng, nhưng lại thiếu lửa.

Bầu khí nóng lên kinh khủng, nhưng tim người lạnh giá.

Thánh Inhaxiô Loyola nói với anh em sắp đi truyền giáo:

“Anh em hãy đi, và làm cho cả thế giới bùng cháy lên!”

LỜI NGUYỆN

Lạy Chúa Giêsu,

Chúa không nhận mình là ngọn lửa,

nhưng nói mình ném lửa trên trần gian.

Chúa không nhận mình là ngọn lửa,

nhưng nhận mình là Ánh sáng.

Chúng con là những người được hưởng ánh sáng của Chúa.

Xin đẩy xa chúng con bóng tối của ích kỷ, sa đọa, mưu mô,

bóng tối của thất vọng, chán chường, sợ hãi.

Xin cho chúng con sống đúng lời Chúa nói:

Các con là ánh sáng cho trần gian.

Ước gì chúng con làm chứng cho Ánh sáng Chúa,

trong bất cứ hoàn cảnh khó khăn nào,

bằng đời sống trong sạch, ngay thẳng, vui tươi.                    

Chúa đã thắp sáng ngọn đèn cuộc đời chúng con.

Xin đặt chúng con trên đế

để soi chiếu cho thế giới hôm nay.

Chỉ mong cho danh Chúa được cả sáng hơn.

 

5. Suy niệm (song ngữ)

Bài Đọc I: Giêrêmia 38, 4-6.8-10
II: Do Thái 12, 1-4

20 Sunday in Ordinary Time
Reading I: Jeremiah 38, 4-6.8-10
II: Hebrew 12, 1-4

Gospel
Luke 12:49-53

49 Jesus said to his disciples: I have come to set the earth on fire, and how I wish it were already blazing!

50 There is a baptism with which I must be baptized, and how great is my anguish until it is accomplished!

51 Do you think that I have come to establish peace on the earth? No, I tell you, but rather division.

52 From now on a household of five will be divided, three against two and two against three;

53 a father will be divided against his son and a son against his father, a mother against her daughter and a daughter against her mother, a mother-in-law against her daughter-in-law and a daughter-in-law against her mother-in-law.

Phúc Âm
Luca 12, 49-53

49 Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: Thầy đã đến đem lửa xuống thế gian và Thầy mong muốn biết bao cho lửa cháy lên.

50 Thầy phải chịu một phép rửa, và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi hoàn tất.

51 Các con tưởng Thầy đến để đem sự bình an xuống thế gian ư? Thầy bảo các con: không phải thế, nhưng Thầy đến để đem sự chia rẽ.

52 Vì từ nay, năm người trong một nhà sẽ chia rẽ nhau, ba người chống lại hai, và hai người chống lại ba:

53 cha chống đối con trai, và con trai chống đối cha; mẹ chống đối con gái, và con gái chống đối mẹ; mẹ chồng chống đối nàng dâu, và nàng dâu chống đối mẹ chồng.

Interesting Details

  • Context: From the 13th Sunday in ordinary time, we follow Jesus journey from his Galilean home toward passion in Jerusalem (9:51-19:27). Right from the start of this journey, he was rejected, prompting James and John to suggest an immediate fiery judgment, “Lord, do You want us to command fire to come down from heaven and consume them? (9:54). Jesus himself later warned of fire and brimstone from heaven (17:29) on judgment day.
  • Another possible meaning of fire is the gift of the Holy Spirit (Acts 2:3).
  • How I wish it were already blazing! Fire also carries a sense of urgency and intense passion.
  • Fire can also purifies us from worldly attachments. In numerous passages about discipleship and judgment day, Jesus warns against stocking worldly wealth, as we read on the 18th Sunday about the rich fool building barns for a retirement that he did not have.
  • The decision to follow Jesus or not will separate people.

Chi Tiết Hay

  • Từ Chúa Nhật 13 thường niên, chúng ta theo Đức Giêsu từ quê Ngài tại Galilê lên Giêrusalem (9, 51-19, 27) chịu thương khó. Ngay từ đầu cuộc hành trình, thiên hạ đã bỏ Ngài, khiến Giacôbê và Gioan đòi trừng phạt, “Thưa Thầy, Thầy có muốn chúng con khiến lửa từ trời xuống thiêu hủy chúng nó không? (9, 54). Về sau chính Đức Giêsu cũng nhắc tới mưa lửa và diêm sinh từ trời đổ xuống (17, 29) trong ngày phán xét.
  • Một ý nghĩa khác của lửa là ơn Chúa Thánh Thần (Cv 2, 3).
  • Thầy những ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên! - lửa cũng mang ý nghĩa của sự cần kíp và nhiệt tâm.
  • Lửa có thể thanh tẩy chúng ta khỏi sự vấn vương của thế gian. Trong nhiều đoạn phúc âm về sứ mạng tông đồ và ngày phán xét, Đức Giêsu khuyên bảo chớ tích trữ của cải thế gian, như trong bài đọc Chúa Nhật 18 thường niên vừa qua về người phú hộ lo tích trữ gạo thóc mà không biết rằng mình sắp chết tới nơi rồi.
  • Quyết định theo Chúa Giêsu hay không sẽ chia rẽ người thân.

One Main Point

Jesus urgently called us to follow Him completely now: Yes or no?

Một Điểm Chính

Chúa Giêsu cấp bách kêu gọi chúng ta đi theo Ngài ngay bây giờ: đi hay không?

Reflections

1. Is there an urgency and passion in my life? If so, what is it?

2. What are the costs to follow it: peace, money, time, relationships, etc.?

3. What would be the cost if I do NOT follow that passion now?

Suy Niệm

1. Tôi có lửa, có nhiệt tâm về việc gì không? Nếu có, thì là cái gì?

2. Đi theo nhiệt tâm đó, tôi phải trả những giá nào: bình an, tiền bạc, thời gian, mối liên hệ, v.v...?

3. Ngược lại, nếu KHÔNG có hay không theo nhiệt tâm đó, thì tôi mất gì không?

Tag:

2025-08-17

Lời Chúa Hôm Nay
Giờ Kinh Sáng
Lịch Công Giáo