Em con đây đã chết mà nay lại sống.
Bài đọc 1: Gs 5,9a.10-12
Sau khi vào Đất Hứa, dân Chúa mừng lễ Vượt Qua.
Bài trích sách Giô-suê.
9a Sau khi dân Ít-ra-en vào Đất Hứa, Đức Chúa phán với ông Giô-suê: “Hôm nay Ta đã cất khỏi các ngươi cái ô nhục của người Ai-cập.”
10 Con cái Ít-ra-en đóng trại ở Ghin-gan và cử hành lễ Vượt Qua ngày mười bốn trong tháng, vào buổi chiều, trong vùng thảo nguyên Giê-ri-khô.
11 Hôm sau lễ Vượt Qua, họ đã dùng thổ sản trong xứ, tức là bánh không men và hạt lúa rang, vào đúng ngày đó.
12 Hôm sau, không còn man-na nữa, khi họ dùng thổ sản trong xứ ; thế là con cái Ít-ra-en không còn có man-na nữa. Năm ấy, họ đã dùng hoa màu của đất Ca-na-an.
Đáp ca: Tv 33,2-3.4-5.6-7 (Đ. c.9a)
Đ.Hãy nghiệm xem Chúa tốt lành biết mấy.
2Tôi sẽ không ngừng chúc tụng Chúa,
câu hát mừng Người chẳng ngớt trên môi.3Linh hồn tôi hãnh diện vì Chúa
xin các bạn nghèo nghe tôi nói mà vui lên.
Đ.Hãy nghiệm xem Chúa tốt lành biết mấy.
4Hãy cùng tôi ngợi khen Đức Chúa,
ta đồng thanh tán tụng danh Người.5Tôi đã tìm kiếm Chúa, và Người đáp lại,
giải thoát cho khỏi mọi nỗi kinh hoàng.
Đ.Hãy nghiệm xem Chúa tốt lành biết mấy.
6Ai nhìn lên Chúa sẽ vui tươi hớn hở,
không bao giờ bẽ mặt hổ ngươi.7Kẻ nghèo này kêu lên và Chúa đã nhận lời,
cứu cho khỏi mọi cơn nguy khốn.
Đ.Hãy nghiệm xem Chúa tốt lành biết mấy.
Bài đọc 2: 2 Cr 5,17-21
Thiên Chúa đã cho chúng ta được hoà giải với Người, nhờ Đức Ki-tô.
Bài trích thư thứ hai của thánh Phao-lô tông đồ gửi tín hữu Cô-rin-tô.
17 Thưa anh em, phàm ai ở trong Đức Ki-tô đều là thọ tạo mới. Cái cũ đã qua, và cái mới đã có đây rồi. 18 Mọi sự ấy đều do bởi Thiên Chúa là Đấng đã nhờ Đức Ki-tô mà cho chúng ta được hoà giải với Người, và trao cho chúng tôi chức vụ hoà giải.
19 Thật vậy, trong Đức Ki-tô, Thiên Chúa đã cho thế gian được hoà giải với Người. Người không còn chấp tội nhân loại nữa, và giao cho chúng tôi công bố lời hoà giải.
20 Vì thế, chúng tôi là sứ giả thay mặt Đức Ki-tô, như thể chính Thiên Chúa dùng chúng tôi mà khuyên dạy. Vậy, nhân danh Đức Ki-tô, chúng tôi nài xin anh em hãy làm hoà với Thiên Chúa.
21 Đấng chẳng hề biết tội là gì, thì Thiên Chúa đã biến Người thành hiện thân của tội lỗi vì chúng ta, để làm cho chúng ta nên công chính trong Người.
Tin mừng: Lc 15, 1-3.11-32
1 Khi ấy, các người thu thuế và các người tội lỗi đều lui tới với Đức Giê-su để nghe Người giảng.
2 Thấy vậy, những người Pha-ri-sêu và các kinh sư bèn xầm xì với nhau: “Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng.” 3 Đức Giê-su mới kể cho họ dụ ngôn này:
11 “Một người kia có hai con trai. 12 Người con thứ nói với cha rằng: ‘Thưa cha, xin cho con phần tài sản con được hưởng.’ Và người cha đã chia của cải cho hai con.
13 Ít ngày sau, người con thứ thu góp tất cả rồi trẩy đi phương xa. Ở đó anh ta sống phóng đãng, phung phí tài sản của mình.
14 “Khi anh ta đã ăn tiêu hết sạch, thì lại xảy ra trong vùng ấy một nạn đói khủng khiếp. Và anh ta bắt đầu lâm cảnh túng thiếu, 15 nên phải đi ở đợ cho một người dân trong vùng; người này sai anh ta ra đồng chăn heo.
16 Anh ta ao ước lấy đậu muồng heo ăn mà nhét cho đầy bụng, nhưng chẳng ai cho.
17 Bấy giờ anh ta hồi tâm và tự nhủ: ‘Biết bao nhiêu người làm công cho cha ta được cơm dư gạo thừa, mà ta ở đây lại chết đói!
18 Thôi, ta đứng lên, đi về cùng cha và thưa với người: ‘Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, 19 chẳng còn đáng gọi là con cha nữa. Xin coi con như một người làm công cho cha vậy.’
20 Thế rồi anh ta đứng lên đi về cùng cha. “Anh ta còn ở đằng xa, thì người cha đã trông thấy. Ông chạnh lòng thương, chạy ra, ôm cổ anh ta, và hôn lấy hôn để.
21 Bấy giờ người con nói rằng: ‘Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa...’
22 Nhưng người cha liền bảo các đầy tớ rằng: ‘Mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay, xỏ dép vào chân cậu, 23 rồi đi bắt con bê đã vỗ béo làm thịt để chúng ta mở tiệc ăn mừng!
24 Vì con ta đây đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy.’ Và họ bắt đầu ăn mừng.
25 “Lúc ấy người con cả của ông đang ở ngoài đồng. Khi anh ta về gần đến nhà, nghe thấy tiếng đàn ca nhảy múa, 26 liền gọi một người đầy tớ ra mà hỏi xem có chuyện gì.
27 Người ấy trả lời: ‘Em cậu đã về, và cha cậu đã làm thịt con bê béo, vì gặp lại cậu ấy mạnh khoẻ.’
28 Người anh cả liền nổi giận và không chịu vào nhà. Nhưng cha cậu ra năn nỉ. 29 Cậu trả lời cha: ‘Cha coi, đã bao nhiêu năm trời con hầu hạ cha, và chẳng khi nào trái lệnh, thế mà chưa bao giờ cha cho lấy được một con dê con để con ăn mừng với bạn bè.
30 Còn thằng con của cha đó, sau khi đã nuốt hết của cải của cha với bọn điếm, nay trở về, thì cha lại giết bê béo ăn mừng!’
31 “Nhưng người cha nói với anh ta: ‘Con à, lúc nào con cũng ở với cha, tất cả những gì của cha đều là của con.
32 Nhưng chúng ta phải ăn mừng, phải vui vẻ, vì em con đây đã chết mà nay lại sống, đã mất mà nay lại tìm thấy’.”
1. Suy niệm (TGM Giuse Nguyễn Năng)
Suy niệm: Dụ ngôn “Tình Phụ Tử” là đoạn Tin Mừng tuyệt đẹp của Thánh Luca. Hình ảnh người cha nhân hậu, yêu thương và trân trọng từng người con. Ông yêu mỗi người con theo từng cá tính của chúng. Và dù mỗi người con có xử thế nào, cha vẫn ân cần biểu lộ tình yêu thương và muốn dùng tình yêu thương để cảm hóa chúng. Chính nhờ tình yêu thương, người con hoang đàng mới trở về thực sự.
Cầu nguyện: Lạy Cha, hình ảnh người con cả và người con thứ đều cho thấy con người trác táng, nhỏ mọn của nhân loại tội lỗi chúng con. Chỉ có người Cha là tuyệt vời! Dù chúng con thế nào đi nữa, Cha vẫn yêu. Cha yêu từng người con, và muốn những người con của Cha biết yêu nhau, biết cảm thông với nhau. Xin Cha dạy chúng con bài học yêu thương, bao dung của Cha để chúng con biết sống chan hòa với Cha và với nhau. Tất cả chúng con đều là tội nhân. Chúng con cầu xin nhờ Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng con. Amen.
Ghi nhớ: “Em con đã chết nay sống lại”.
2. Suy niệm (Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)
I. DẪN VÀO THÁNH LỄ
Anh chị em thân mến
Bài Tin Mừng hôm nay kể chuyện đứa con hoang đàng hối hận trở về và được Cha mở rộng vòng tay tha thứ. Chúng ta là những đứa con hoang đàng và Thiên Chúa là Cha giàu lòng thương xót luôn chờ đón chúng ta trở về để tha thứ và phục hồi tư cách làm con. Thánh lễ hôm nay là một dịp tốt để chúng ta trở về.
II. GỢI Ý SÁM HỐI
Chúng ta hãy mượn lời đứa con hoang đàng để bày tỏ với Chúa tâm tình sám hối chân thành:
- Thưa Cha, con thật đắc tội vì đã rời bỏ nhà Cha để chạy theo những cám dỗ của thế gian. Xin Chúa thương xót...
- Thưa Cha, con thật đắc tội vì đã không yêu thương anh chị em của con. Xin Chúa Kitô thương xót...
- Thưa Cha, con thật đắc tội vì đã nuông chiều xác thịt mà làm mất lòng Cha. Xin Chúa thương xót...
III. LỜI CHÚA
1. Bài đọc I (Gs 5,9-12)
Giai đoạn thứ ba của lịch sử cứu độ : Thiên Chúa cho dân Do thái được vào chiếm hữu đất hứa.
- Việc đầu tiên khi vừa vào Đất Hứa là cử hành Lễ Vượt Qua. Lễ này được ấn định sẽ cử hành hàng năm từ đó về sau vào ngày 14 tháng Nisan, nhằm giúp dân do thái luôn nhớ đến lòng thương xót của Thiên Chúa đối với họ.
- Sau khi dân đã vào Đất hứa rồi thì manna không còn rơi xuống nữa, vì từ nay họ sẽ sống bằng hoa màu của đất đai mà Thiên Chúa ban cho họ.
2. Đáp ca (Tv 33)
Ca tụng lòng thương xót của Thiên Chúa.
3. Phúc Âm (Lc 15, 1-3.11-32)
Dụ ngôn người cha nhân từ : Hình ảnh người Cha trong bài Phúc Âm minh họa rất sống động tấm lòng nhân từ bao la đến độ không thể ngờ của Thiên Chúa.
11-12 - "Xin cha ban cho con phần gia tài thuộc về con" : Thông thường cha chỉ chia gia tài cho các con khi gần chết. Tuy thực tế có những trường hợp cha chia gia tài cho con ngay lúc ông còn mạnh khoẻ (x Tb 8,21), nhưng đó là tự ý người cha chứ không do đòi hỏi của con. Hơn nữa sách Huấn ca, 1 quyển sưu tập những lời dạy khôn ngoan, đã khuyên đừng bao giờ làm như thế bởi vì "nắm tiền là nắm quyền", khi đã chia gia tài cho con rồi thì không còn điều khiển chúng nỗi nữa, trái lại có thể còn bị chúng ngược đãi (Hc 33,20-24). Người cha trong dụ ngôn này đã không khôn ngoan tính kỹ như vậy, vì ông quá thương con.
- Người cha này là hình ảnh của Thiên Chúa. Nhiều người trách Thiên Chúa sao quá hiền lành không trừng phạt "nhãn tiền" những người tội lỗi. Nhưng Thiên Chúa đã yêu thương loài người nên khi dựng nên loài người thì đã ban cho họ Tự Do. Mà tự do nghĩa là có thể vâng lời hoặc không vâng lời Thiên Chúa. Vậy không nên trách Thiên Chúa mà chỉ nên cám ơn Thiên Chúa đã quá yêu thương loài người. Có trách là trách loài người đã xử dụng sai quyền tự do của mình.
13-20a Sau khi lãnh gia tài, đứa con thứ liền ra đi sống bê tha phung phí hết của cải và rơi vào tình trạng khốn khổ.
- "Chăn heo" : người do thái coi heo là đồ ghê tởm. Thịt heo họ còn không ăn. Thế mà đứa con này phải đi chăn heo. Tệ hơn nữa là muốn ăn thức ăn của heo mà còn không được. Nghĩa là tình trạng xuống dốc đến tột cùng.
Trong lúc xuống dốc tột cùng như thế, nó muốn quay trở về với cha. Đây cũng là tâm lý của kẻ tội lỗi : khi sung sướng thì quên Chúa, quên đạo lý. Lúc khổ sở mới biết hối hận.
Trước lúc quay về, nó soạn sẵn 1 bài tự thú. Ta hãy chú ý là bài tự thú này khá dài (2 câu 18-19)
20b Câu này chứa nhiều chi tiết chứng tỏ tình thương vô bờ bến của người cha nhân lành :
- "Khi cậu còn ở đàng xa, Cha cậu trông thấy" : Một người cha bình thường khi con bỏ nhà ra đi thì tức giận và có thể còn từ con luôn. Nhưng người cha này không như vậy. Chi tiết ông trông thấy con từ xa có nghĩa là sau khi nó ra đi ông rất thương tiếc nó, thường xuyên đứng trước ngõ trông chờ nó, nhờ đó mới thấy bóng dáng nó từ đàng xa. Ý nghĩa : khi con người đi đàng tội lỗi, TC không từ bỏ con người nhưng luôn trông chờ con người hối hận quay về.
- "Liền động lòng thương" : Đối với những người cha bình thường, cho dù độ lương bao nhiêu đi nữa với đứa con ngỗ nghịch bỏ nhà ra đi, khi thấy nó về thì phản ứng đầu tiên là chửi mắng, hoặc ít ra là lạnh nhạt. Người cha này không thế, phản ứng đầu tiên của ông là "liền động lòng thương".
- "Chạy lại" : Ta nên hiểu chi tiết này theo tâm lý người phương đông. Những người phương đông (trong đó có do thái) giỏi kềm chế cảm xúc của mình, nhất là những người đàn ông. Đàn ông càng lớn tuổi càng phải đi đứng chửng chạc. Nhưng người cha phương đông trong dụ ngôn này chẳng những không kềm chế tình cảm mà còn "chạy" ! Vì tình cảm thương con quá lớn, ông không kềm chế nỗi nữa rồi.
- "Ôm vào lòng hôn con tha thiết" : cử chỉ này không chỉ là biểu lộ một tình thương mãnh liệt mà còn có ý nghĩa tha thứ. Ôm hôn là biểu lôï sự tha thứ (xem chuyện Đavít ôm hôn tha thứ cho Absalom ở 2Sm 14,33). Đáng chú ý là khi đó đứa con chưa mở lời xin lỗi.
21-24 - Khi đó đứa con bắt đầu đọc bài tự thú mà nó đã học thuộc lòng. Nên lưu ý là nó đọc chưa xong thì người cha đã không nghe nữa. Ông không cần lời lẽ của nó, nguyên việc nó quay về với ông đã đủ. Ông còn bận tổ chức tiệc mừng.
- "Mau mau đi" : tha thứ nhanh chóng, nôn nóng mở tiệc mừng.
- "Đem áo dài tốt nhất mặc cho cậu" : Áo chỉ thân phận của người mặc áo. Đứa con này đã đánh mất chiếc áo làm con để thay vào chiếc áo chăn heo. Nay nó được cho mặc "áo dài tốt nhất" tức là nó được trả lại quyền làm con. Chú ý là nó đã tự thú "Con không đáng cha nhận làm con cha nữa. Xin cha cứ coi con như đứa làm thuê".
- "Đeo nhẫn vào tay" : nhẫn là món chỉ có những người quý phái mới mang.
- "Xỏ giầy vào chân cậu" : theo tục lệ do thái, đầy tớ không mang giầy (mà chỉ xách giầy cho chủ).
- "Bắt con bò tơ chúng ta đã nuôi cho béo" : không phải bất cứ con bò béo nào, mà con bò "chúng ta đã nuôi cho béo". Nghĩa là người cha đã dự trù sẵn bữa tiệc mừng này nên đã chỉ định một con bò phải nuôi cho béo. 1 chi tiết nữa cho ta thấy người cha lúc nào cũng trông con quay về.
c.29 Phần thứ hai của dụ ngôn nói về người anh
- "Bao nhiêu năm trời tôi phục vụ ông" : biệt phái và thông giáo cũng nghĩ rằng họ "phục vụ" Thiên Chúa hết lòng bằng cách tuân giữ mọi lề luật không sai phạm chút nào.
c.30 "Thằng con của ông đó" : người con trưởng không coi người con thứ là em mình.
c.32 "Em con đây" : người cha sửa lại lời lẽ sai lầm của người con trưởng.
Thật là 1 dụ ngôn cảm động. Những nét mô tả tình cảm của người cha trong dụ ngôn này khó mà có được nơi một người cha bình thường trong thế gian này mà chỉ có thể áp dụng vào Thiên Chúa nhân lành vô cùng.
4. Bài đọc II (2 Cr 5,17-21)
Chúa Giêsu Kitô đã hòa giải loài người tội lỗi lại với Thiên Chúa giàu lòng thương xót. Giáo Hội có sứ mạng làm cho những ơn ích của sự hòa giải ấy được đến với mọi người.
IV. GỢI Ý GIẢNG
1. Thiên Chúa giàu lòng thương xót
Gandhi kể rằng khi ông 15 tuổi, ông đã ăn cắp của anh mình một đồng tiền vàng. Tuy nhiên sau đó ông rất áy náy nên quyết định thú tội với cha mình. Ông viết lên một tờ giấy những gì mình đã làm, sau đó xin cha tha thứ, và cuối cùng hứa sẽ không tái phạm nữa. Khi ấy cha ông đang bệnh phải nằm trên giường. Gandhi đến đưa tờ giấy cho cha và hồi hộp chờ Cha xét xử. Người Cha ngồi dậy, cầm tờ giấy, trong khi ông đọc thì hai dòng lệ từ đôi mắt ông chảy xuống. Gandhi cũng không cần được nước mắt mình. Cuối cùng khi đã đọc xong, người Cha không hề nổi giận và cũng chẳng trách móc Gandhi lời nào. Ông ôm chầm lấy con và sung sướng vì con mình đã biết hối hận.
Cảm nghiệm được yêu thương ngay khi mình còn tội lỗi là một cảm nghiệm vô cùng sâu sắc đối với Gandhi. Sau này ông nói : "Chỉ có người nào đã trải qua cảm nghiệm về loại tình yêu như thế mới có thể hiểu được nó thôi".
Đó cũng là cảm nghiệm của đứa con hoang đàng trong bài Tin Mừng hôm nay. Qua dụ ngôn này, Chúa Giêsu muốn giúp chúng ta hiểu được lòng thương xót bao là của Thiên Chúa là Cha chúng ta. Ngài muốn nói với chúng ta rằng : Nếu chúng ta phạm tội thì Thiên Chúa vẫn yêu thương chúng ta. Ngài không những không bớt thương mà còn thương nhiều hơn nữa. Không phải đợi chúng ta trở nên hoàn hảo thì Thiên Chúa mới thương, mà Ngài yêu thương chúng ta chính vì chúng ta tội lỗi, yêu thương ngay khi chúng ta còn trong tội lỗi.
Tất cả chúng ta, dù nhiều hay ít, đều là những người tội lỗi. Nhưng chính trong tội lỗi và qua tội lỗi mà chúng ta cảm nhận được lòng nhân từ thương xót của Thiên Chúa. Thật vậy, nếu chúng ta không bao giờ phạm tội thì chúng ta cũng không bao giờ cảm nhận được niềm vui được tha thứ. Nói thế không có nghĩa là chúng ta cứ tha hồ phạm tội. Nói như thế là để chúng ta càng hiểu được tấm lòng của Thiên Chúa. (FM)
2. Những con tim
Dụ ngôn này là một câu chuyện về những con tim :
- Con tim ích kỷ và con tim quảng đại.
- Con tim hẹp hòi và con tim rộng mở.
- Con tim lạnh lùng và con tim nồng ấm.
- Con tim tan vỡ và con tim vui mừng.
- Con tim sám hối và con tim không sám hối.
- Con tim biết tha thứ và con tim không thứ tha.
- Con tim oán giận và con tim biết ơn. (Theo FM)
3. Người con gái hoang đàng
Dụ ngôn người con trai hoang đàng đã khiến Anon liên tưởng tới hoàn cảnh của những người con gái hoang đàng. Anon có những dòng mà đại ý như sau :
Biết bao thi sĩ đã viết nên những bài thơ đẹp nói về tình thương tha thứ của người cha và hạnh phúc của người con trai hoang đàng khi nó trở về. Nhưng đối với những người con gái hoàng đàng thì sao ?
Người con gái hoang đàng cũng có thể quay về ngôi nhà mình đã bỏ đi. Nhưng không có gì còn giống như trước : Áng mây mờ vẫn còn nấn ná trên nét mặt những người thân ; lại còn những lời chế diễu dèm pha của bà con lối xóm.
Có lẽ vì thế mà khi người con gái hoang đàng còn đang bơ vơ trên những nẻo đường lưu lạc, chỉ cần nghĩ đến những môi miệng cong cớn đó là không còn chút can đảm nào để trở về.
Vậy, hãy mở rộng cửa để đón người con trai hoang đàng trở về ; hãy giết bò, hãy mở tiệc ăn mừng.
Nhưng xin đừng đóng sập cánh cửa trước mặt người con con gái hoang đàng trở về, bởi vì, hãy nhớ đừng quên, nàng cũng có một linh hồn.
4. Trừng phạt và tha thứ
Người con hoang đàng biết mình xứng đáng bị trừng phạt và sẵn sàng chờ đợi bị trừng phạt.
Thế nhưng người cha không trừng phạt, mà tha thứ.
Trừng phạt giống như dội một thùng nước lên que củi sắp tàn. Kết quả là ngọn lửa tắt ngúm.
Tha thứ giống như thổi hơi vào tàn lửa sắp tắt, giúp cho ngọn lửa lại bùng lên. (FM)
5. Trong đôi mắt cha
Một cô bé đang ngồi trên gối mẹ, chợt lên tiếng hỏi mẹ :
- Mẹ ơi, con có thể nhìn thấy lòng mẹ không ?
Bà mẹ đáp :
- Mẹ không biết, nhưng con có thể nhìn vào mắt mẹ xem có thấy gì trong đó ?
Cô bé nhướng mắt nhìn chăm chú vào đôi mắt người mẹ, rồi sung sướng kêu lên :
- Mẹ ơi ! Con nhìn thấy lòng mẹ rồi, ở đó có một cô bé tí xíu là chính con đó mẹ ạ ?
*
Trong đôi mắt của cha mẹ, con cái là tất cả. Trong đôi mắt Thiên Chúa chỉ có con người, nhất là những con người tội lỗi đáng thương. Vua Đavít đã cầu nguyện cùng Chúa : "Xin giữ gìn con như thể con ngươi, dưới bóng Ngài, xin thương che chở" (Tv 17,8).
Vâng, tấm lòng yêu thương khôn tả của Thiên Chúa đã được Chúa Giêsu bày tỏ trong dụ ngôn "Người cha nhân hậu". Một người cha rất đỗi hiền từ, luôn tôn trọng tự do của con cái, sẵn sàng trao phần gia tài cho người con thứ. Sau khi anh ta đã "sống phóng đãng, phung phí hết tài sản" trở về, người cha ấy cũng không trách mắng, nghiêm phạt, từ con. Trái lại, khi thấy bóng dáng cậu từ xa, ông đã vội vã chạy đến ôm chầm lấy cậu hôn hít vui mừng đến chảy nước mắt.
Lòng nhân hậu, yêu thương, tha thứ đã khiến ông quên hết lỗi lầm của đứa con hoang đàng, mà chỉ còn thấy trước mặt ông, trong vòng tay âu yếm, là đứa con ông hằng mòn mỏi đợi trông. Đứa con mà ông tưởng đã mất vĩnh viễn nay lại tìm thấy được. Ông vui sướng mở tiệc liên hoan, đàn ca múa hát, ăn mừng người con trở về. Một cuộc đón tiếp quá sức nồng hậu, ngoài sức tưởng tượng của đứa con.
Người anh đi làm về, chẳng những đã không vui mừng mà con nổi giận, trách móc cha già, khiến ông lại phải nhẫn nhục ra tận cổng phân trần, năn nỉ, mời cậu vào nhà chung vui với ông và gặp lại đứa em "đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy". Ông khẳng định với cậu rằng : "Tất cả những gì của cha đều là của con" (Lc 13,31).
Đó là câu chuyện có thật về một Thiên Chúa yêu thương, quảng đại, và hay tha thứ. Một Thiên Chúa không thích dùng hình phạt nhưng luôn tỏ lòng khoan dung. Một Thiên Chúa giàu lòng thương xót. "Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương" (Tv 135).
Chỉ tiếc một điều là người anh cả đã không chịu vào nhà. Anh không chịu vào vì anh không thể tha thứ cho người em lầm lỡ. Anh không chịu vào vì anh sợ quyền lợi của anh bị xâm phạm. Anh không chịu vào vì anh không hiểu được tấm lòng quá nhân hậu bao dung của người cha.
Hoá ra, bấy lâu nay anh sống trong nhà cha mà như ở bên ngoài : Anh không trái lệnh cha chỉ để tròn bổn phận chứ không phải vì yêu mến cha. Anh không hề gọi người em mình là "em tôi" mà là "đứa con của cha kia". Anh không cảm thông với người em lầm lỡ, cũng không chia sẻ nỗi khổ của người cha mất con.
Anh chỉ nghĩ về mình, quyền lợi của mình, hạnh phúc của mình. Anh là người đại diện cho nhóm Pharisêu và các kinh sư, luôn tự hào về đời sống đạo đức của mình, và muốn cho những kẻ tội lỗi phải chết hơn là được cứu chữa.
Vậy cả hai người con đều phải quay trở về với cha, cả hai đều phải bước vào nhà cha, cả hai đều phải rũ bỏ nếp sống cũ, nếp nghĩ xưa để về ẩn mình trong trái tim cha : Nhân hậu, bao dung, tha thứ và tròn đầy yêu thương.
Trở về với cha là giang tay ôm lấy người em lầm lỡ.
Trở về với cha cũng là về với anh em, con cùng một cha.
Trở về với cha để thấy mình là tất cả, trong đôi mắt cha.
*
Lạy Chúa. tình Chúa lớn hơn tội lỗi chúng con bội phần. Xin cho chúng con mỗi lần được Chúa thứ tha cũng biết rộng lượng tha thứ cho nhau, để mỗi ngày chúng con càng nên xứng đáng với Chúa. Amen. (TP)
6. Mảnh suy tư
- "Lúc đứa con hoang đàng quỳ gối xuống và khóc là lúc nó biến những khoảng thời gian phung phí cuộc đời với bọn đĩ điếm, với việc chăn heo, với việc ăn cháo heo cho đỡ đói thành những khoảng thời gian đẹp nhất và thánh thiện nhất trong đời nó. Dễ có mấy ai ý thức được như vậy. Tôi dám nói rằng cần phải vào tù mới hiểu được điều đó. Và nếu thế thì có vào tù cũng đáng lắm chứ" (Oscar Wilde)
- Chẳng có gì khó khi trở về nhà như một vị anh hùng với những chiến công hiển hách. Nhưng trở về nhà với vóc dáng tả tơi, hai bàn tay trắng và một con tim tan nát vì mặc cảm tội lỗi là một điều khó vô cùng.
- Đứa con hoang đàng biết mình đáng bị trừng phạt. Do đó nếu người cha trừng phạt thì nó cũng sẵn sàng chịu đựng. Lòng nó nhẹ đi. Nhưng nó không vui. Chính sự tha thứ của người cha mới đem lại cho nó niềm vui thực sự.
- Các vị thánh làm chứng về ân sủng và lòng trung thành của Thiên Chúa. Còn những người tội lỗi thì làm chứng và tình thương và lòng thương xót của Ngài.
V. LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
Chủ tế: Anh chị em thân mến, Thiên Chúa là một người Cha giàu lòng thương xót. Người không muốn kẻ gian ác phải chết, nhưng muốn nó sám hối ăn năn để được sống. Tin tưởng vào tình thương tha thứ của Chúa, chúng ta cùng dâng lời cầu xin:
1. Hội thánh là một người mẹ hiền luôn thương yêu con cái của mình / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các vị mục tử / luôn thể hiện tình thương trong cung cách xử sự thường ngày.
2. Hiện nay / tình trạng thanh thiếu niên bỏ nhà ra đi bụi đời rất đáng báo động / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các bậc cha mẹ / luôn sống hòa thuận yêu thương nhau / và nhất là quan tâm giáo dục con cái của mình.
3. Phải từ bỏ nếp sống tội lỗi mà quay về với Chúa / là điều mà người Kitô hữu cần thực hiện trong mùa Chay thánh này / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi tín hữu biết đoạn tuyệt với tội lỗi / để xứng đáng đón mừng đại lễ Phục sinh.
4. Ganh tỵ và ghen ghét gây ra biết bao đau khổ cho con người / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết cố gắng sống bác ái yêu thương như Chúa dạy / nhờ đó dẹp bỏ được những tật xấu đáng ghét này.
Chủ tế: Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã nói: Người ta cứ dấu này mà nhận biết anh em là môn đệ của Thầy, là anh em yêu thương nhau. Xin Chúa ban ơn giúp sức để chúng con có thể sống trọn vẹn lời Chúa đã dạy. Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời.
VI. TRONG THÁNH LỄ
- Trước kinh Lạy Cha: Chúng ta thật hạnh phúc vì được làm con của Thiên Chúa giàu lòng thương xót. Vậy chúng ta hãy dâng lên Ngài những tâm tình kính mến chân thành của chúng ta.
VII. GIẢI TÁN
Hôm nay chúng ta đã cảm nhận được lòng nhân từ thương xót của Thiên Chúa là Cha chúng ta. Bây giờ chúng ta hãy là những sứ giả loan báo cho mọi người về lòng nhân từ thương xót bao la ấy. Chúc anh chị em luôn bình an.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể,
Hôm nay Chúa đã dạy con: Thiên Chúa là cha giàu lòng thương xót, sẽ tha thứ tất cả nếu con thật lòng quay đầu trở về, gieo mình vào vòng tay yêu thương của Chúa. Hơn nữa, Thiên Chúa là cha yêu thương trước khi con yêu thương Ngài, Ngài luôn đi tìm con trước khi con tìm Ngài và Ngài luôn mở rộng đôi tay chờ đón con quay trở lại với Ngài.
Lạy Chúa Giêsu,
Xin cho con dám nhìn lại con người thật của mình, để thấy được những yếu đuối nơi bản thân mà biết nương tựa vào Chúa. Xin cho con can đảm trở về với Chúa, vì tin rằng tình Chúa lớn hơn tội con gấp bội. Ước gì sau mỗi lần được Chúa thứ tha, con lại thấy mình hiền hòa hơn với tha nhân, để con luôn được ở trong vòng tay yêu thương của Chúa. Amen.
3. Suy niệm (Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)
DỤ NGÔN ĐỨA CON HOANG ĐÀNG
A. DẪN NHẬP
Thiên Chúa dựng nên con người có hồn có xác. Ngài còn ban cho họ lý trí và tự do để sống theo thánh ý Ngài. Tự do là tặng phẩm vô giá Thiên Chúa đã tặng ban cho con người để họ tự do trung thành với Chúa hay phản bội Ngài. Thiên Chúa luôn tôn trọng tự do của con người. Vì thế, tự do là con dao hai lưỡi, nếu biết dùng nó cho đúng thì sống, mà dùng sai thì chết.
Chính vì con người có quyền tự do, nên họ đã phạm tội chống lại Thiên Chúa. Nhưng Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót, Ngài vẫn yêu thương con người, khi họ còn ở trong vòng tội lỗi, Ngài kiên nhẫn chờ đợi, kêu mời và tạo mọi điều kiện để họ trở về sống trong ân tình của Ngài. Dụ ngôn đứa con hoang đàng hôm nay nói lên chân lý đó.
Thánh Luca đặc biệt nói về lòng thương xót tha thứ của Thiên Chúa qua ba dụ ngôn, mà dụ ngôn người con hoang đàng là sâu sắc hơn cả. Con người yếu đuối và hay sa ngã. Nguyên tổ Adong Evà đã sử dụng sai tự do của mình, đã sa ngã, nhưng Chúa vẫn thứ tha. Rồi đến lượt con cháu ông bà cũng đi vào vết xe cũ đó, nhưng Thiên Chúa vẫn kiên nhẫn chờ đợi, kêu gọi họ trở về để được ơn tha thứ. Đavít, Mađalêna, Phaolô, Augustinô, Charles de Foucauld… đã đi vào con đường tăm tối và đã được giải thoát sang vùng ánh sáng tự do.
Có lẽ mỗi người đều sẽ phải nếm nỗi chua xót, vì đã sử dụng tự do sai trái! Tất cả đã đúc thành cái giá cắt cổ, mà Con Thiên Chúa phải trả thay bằng chính mạng sống mình. Bài học sâu sắc của đứa con hoang đàng đã trở thành tiêu biểu cho những người dám chân thành và can đảm làm cuộc trở về với Người Cha nhân hậu.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA
+ Bài đọc 1: Gs 5,9-12
Trong 40 năm trên đường về Đất hứa, Thiên Chúa đã nuôi dưỡng dân Do thái bằng manna, ai muốn ăn bao nhiêu thì ăn, không bị hạn chế, nhưng khi đã đặt chân lên Đất hứa rồi, manna thôi rơi, và dân bắt đầu ăn thổ sản trong xứ.
Cuộc xuất hành về Đất hứa đã kết thúc, họ mừng lễ Vượt Qua đầu tiên, để tạ ơn Chúa đã thực thi lời hứa trong giai đoạn quyết định vừa qua. Từ nay, lễ Vượt qua được ấn định vào ngày 14 tháng Nisan hàng năm giúp dân Do thái luôn nhớ đến lòng thương xót của Thiên Chúa đối với họ.
Trong cuộc hành trình về quê trời, Mình Thánh Chúa là manna được Thiên Chúa ban cho loài người, một thứ thần lương nhiệm mầu nuôi sống linh hồn chúng ta và đem chúng ta đến sự sống đời đời.
+ Bài đọc 2: 2Cr 5,17-21
Thiên Chúa là Đấng trung thành và thương xót, đã dùng Đức Kitô mà giao hoà chúng ta với Người, đã gánh tội của chúng ta và làm cho chúng ta được thông phần sự sống của Thiên Chúa. Thiên Chúa đã cho chúng ta được tái sinh nhờ Bí tích rửa tội để sống một đời sống mới.
Nhưng điều đã được thực hiện dứt khoát một lần trong Đức Kitô còn phải được thực hiện nơi từng người: đó là tầm quan trọng của sứ mạng hoà giải được giao phó cho các vị Tông đồ. Do đó, Giáo hội có sứ mạng làm cho những ơn ích của sự hoà giải ấy được đến với mọi người.
+ Bài Tin mừng: Lc 15,1-3.11-32
Thiên Chúa luôn giàu lòng thương xót và tha thứ đối với tất cả mọi người. Thánh Luca đã diễn tả lòng thương xót đó qua 3 dụ ngôn: - Dụ ngôn con chiên lạc - Dụ ngôn đồng tiền bị mất. - Dụ ngôn đứa con hoang đàng.
Trong dụ ngôn đứa con hoang đàng này, ta thấy người cha có hai đặc điểm: tôn trọng tự do của con, sẵn sàng chia gia tài cho con, và nhất là sẵn sàng tha thứ, luôn mong đợi con trở về ngay khi nó chưa hối lỗi. Người con thứ không phải là mẫu mực một kẻ tội lỗi hồi tâm: anh ta không có vẻ ăn năn thống hối thực sự, anh ta chỉ đi theo hướng có lợi, nghĩa là trở về cho khỏi bị chết đói.
Tuy thế, Thiên Chúa là người Cha tốt lành và nhẫn nại, Ngài tìm mọi cách để cứu chúng ta. Ngài đợi chờ chúng ta qua nhiều năm tháng dài. Ngài vui sướng đón nhận chúng ta vào cánh tay Ngài, vì chúng ta đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy. Tình thương dạt dào, đó là lời mời gọi của Cha trên trời dành cho hết mọi người con của Ngài, dù họ biết bao lỗi lầm, dù họ chưa sẵn sàng trở về với Ngài.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA: Trở về với Cha nhân hậu
I. BA MÀN CỦA MỘT VỞ KỊCH
Theo giáo thuyết của các giáo sĩ Do thái thì những người thu thuế và tội lỗi bị tách ra khỏi cộng đồng tôn giáo và xã hội Do thái. Nhưng ở đây những người này lại đến gần Đức Giêsu để nghe Ngài giảng và họ còn mời Ngài đến dùng bữa tại nhà mình.
Thấy thái độ Đức Giêsu đón tiếp những người thu thuế và tội lỗi trái với giáo thuyết của Do thái, nên biệt phái và luật sĩ là những người chủ trương giữ luật rất khắt khe đã kêu trách Đức Giêsu. Họ kêu trách Ngài về hai điểm:
a) “Ông này đón tiếp những người tội lỗi”: Người Do thái hành động theo châm ngôn sau: Thiên Chúa yêu thương những người công chính và gớm ghét những người tội lỗi. Bởi vì Thiên Chúa gớm ghét người tội lỗi nên người Do thái cũng phải làm như thế. Nhưng ở đây Đức Giêsu làm ngược lại: Ngài đón tiếp các tội nhân.
b) “Và cùng ăn với chúng”: Không những tiếp đón những người tội lỗi mà Đức Giêsu còn đi xa hơn: là cùng ăn với họ. Thông thường bữa ăn diễn tả thân hữu liên đới giữa con người với nhau. Vì thế, ở đây với hai thái độ “Cùng ăn với họ”, Đức Giêsu cho thấy Ngài muốn hiệp thông với chính những người tội lỗi. Ngài muốn cứu giúp những người tội lỗi và chính Ngài là nơi nương tựa cho những kẻ bị bỏ rơi.
Trong chương 15, ta thấy Đức Giêsu đã kể ra 3 dụ ngôn có ý nhằm vào luật sĩ và biệt phái, vì họ tự cho mình là công chính mà khinh khi những người tội lỗi và những người bị loại trừ. Ba dụ ngôn ấy là:
- Con chiên lạc (Lc 15,4-7). - Đồng tiền bị mất (Lc 15,8-10). - Đứa con hoang đàng (Lc 15,11-32).
Ba dụ ngôn này được ngắt nhịp bằng một điệp khúc ca tụng tình thương Thiên Chúa được bày tỏ nơi Đức Giêsu; tình thương ấy dành cho những người không được yêu thương và không đáng yêu, những người một cách gián tiếp lên án sự nghiệt ngã và nghiêm khắc mà những kẻ tự phụ là công chính dành cho họ.
Phụng vụ hôm nay không ghi lại hai dụ ngôn trên, mà chỉ ghi lại dụ ngôn thứ ba là dụ ngôn đứa con hoang đàng, tức là dụ ngôn về tình phụ tử. Dụ ngôn này thật quý báu, do được một mình Luca kể lại, vì nó đặc biệt phù hợp với tinh thần của sách Tin mừng này. Trong dụ ngôn đứa con hoang đàng, những nhân vật được nêu ra ở đây có tính cách ám chỉ:
- Người kia tức là người cha: ám chỉ Thiên Chúa.
- Người con cả: ám chỉ dân Do thái, cách riêng các luật sĩ và biệt phái.
- Người con thứ: ám chỉ người có tội.
1. Màn thứ nhất: Người cha chia gia tài
Theo luật của người Do thái, người cha không được tự do phân chia gia tài mình tuỳ ý thích, đứa con cả đương nhiên được hai phần ba, đứa con thứ một phần ba (Đnl 21,1). Theo phong tục của nhiều dân tộc, người con chỉ được phép chia gia tài, khi người cha đã chết. Cha còn sống mà đòi chia gia tài, chẳng khác nào muốn nguyền rủa cho cha chết sớm! Nhưng đứa con thứ bất hiếu trong dụ ngôn này đã đòi cha chia gia tài sớm. Nó làm thế như có ý nói: “Cha hãy cho tôi ngay bây giờ phần gia tài, mà trước sau gì tôi cũng được lãnh khi cha chết, và hãy để tôi đi ra khỏi nhà này”.
Người cha không tranh luận gì, ông muốn tôn trọng sự tự do của nó. Ông cũng hiểu rằng nếu con ông cần được một bài học, thì nó phải có một bài học đắt giá, và ông đã chia gia tài cho nó. Tức khắc đứa con lấy phần riêng của nó và bỏ nhà ra đi.
2. Màn thứ hai: Đứa con thứ ra đi và trở về
Nhận được phần gia tài rồi, hắn lên đường đi đến một phương xa, chơi bời trác táng, giao du với những quân du côn, với những cô gái đĩ điếm. Tiêu xài như thế thì đến núi cũng phải lở. Chẳng bao lâu hắn đã tiêu xài hết tiền của, đồng thời nạn đói cũng xảy ra tại miền ấy. Hắn phải đi kiếm việc làm cho qua ngày, nhưng tìm được việc làm đâu có dễ, hắn chỉ xin được chăn heo, mà đối với người Do thái chăn heo là một điều xấu hổ, mất phẩm giá, vì heo là một con vật ô uế (Đnl 14,8).
Sống trong cảnh nhục nhã và túng thiếu đến cùng cực, hắn mới hồi tâm lại: ở nhà cha tôi thiếu gì của ăn, đến đứa đầy tớ cũng còn thừa cơm bánh, còn tôi ở đây thì phải cùng cực, muốn ăn cám heo người ta cũng không cho ăn. Ở trong hoàn cảnh này thì vô phương giải quyết, chỉ còn cách trở về kiếm miếng cơm cho khỏi chết. Hắn nghĩ thế này: tôi sẽ trở về xin lỗi cha và chỉ dám xin cho ở nhà cha với phận mọn là đứa tôi tớ thôi, đâu dám nghĩ đến chuyện được nhận lại làm con. Nhưng làm một tên nô lệ mạt trong nhà, một tên đầy tớ ở thuê, một tên lao động công nhật trong nhà cha, theo một nghĩa, thì nô lệ là một phần tử trong gia đình, nhưng đầy tớ ở thuê thì có thể bị đuổi sau khi chủ báo trước một ngày vì nó không thuộc về gia đình chút nào.
Sau khi đã suy nghĩ rất hung, hắn lên đường trở về, và mọi điều dự đoán của hắn đều sai hết. Thánh Luca đã mô tả: “Anh ta còn ở đàng xa, thì người cha đã trông thấy. Ông chạnh lòng thương, chạy ra ôm cổ anh ta và hôn lấy hôn để. Bấy giờ người con nói: ‘Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng đáng gọi là con cha nữa…’ Nhưng người cha liền bảo các đầy tớ rằng: ‘Mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay, xỏ dép vào chân cậu, rồi đi bắt con bê đã vỗ béo làm thịt để chúng ta mở tiệc ăn mừng! Vì con ta đây đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy’. Và họ bắt đầu ăn mừng”.
3. Màn thứ ba: Người anh cả giận dữ
Đáng buồn thay, khi về đến nhà thấy người ta đang liên hoan ăn mừng người con thứ đã trở về, người anh cả giận điên lên không chịu vào nhà. Anh không chịu vào nhà, vì anh không thể tha thứ cho người em lầm lỡ. Anh không chịu vào nhà, vì anh sợ quyền lợi của anh bị xâm phạm. Anh không chịu vào nhà, vì anh không thể hiểu được tấm lòng nhân hậu của người cha.
Hoá ra, bấy lâu nay anh sống trong nhà cha mà như ở bên ngoài: anh không trái lệnh cha, chỉ để làm tròn bổn phận chứ không phải vì yêu mến cha. Anh không hề gọi người em mình là “em tôi” mà là “thằng con của cha kia”. Anh không cảm thông với người em lầm lỡ, cũng không chia sẻ nỗi khổ của người cha mất con. Anh ta là người tự tôn, sẵn sàng đạp kẻ nào đã ngã xuống rãnh bùn hôi thối càng ngã sâu hơn nữa.
II. BA MÀN KỊCH ĐỐI VỚI CHÚNG TA
1. Thiên Chúa giàu lòng thương xót
Thiên Chúa là người cha giàu lòng thương xót, chỉ biết thi ân giáng phúc muôn vàn cho con người một cách quảng đại và bao dung tha thứ, và rất tôn trọng con người hơn những người cha tôn trọng tự do con cái. Ngài không thẳng tay trừng phạt, chỉ biết nhẫn nại chờ đợi đứa con trở về. Vừa khi thấy nó trở về, Ngài chạy lại ôm chầm, hôn nó một hồi lâu, không cần nghe nó xin lỗi, vì nó trở về chỉ vì thống khổ, không sống được nữa, nó chỉ mong về được ăn cho no, thoát khổ, thoát chết.
Thái độ của người cha thật tuyệt vời, ông không để cho nó kịp mở miệng xin làm đầy tớ. Ông đã lên tiếng trước. Chiếc áo dài tượng trưng cho việc được tôn trọng, chiếc nhẫn tượng trưng cho quyền bính, vì nếu ai cho kẻ khác chiếc nhẫn ấn tín của mình, thì cũng như uỷ quyền cho người đó thay thế mình. Đôi giày là dấu hiệu làm con khác với nô lệ, vì con cái trong gia đình mới mang giày, còn nô lệ thì không. Và một yến tiệc được bày ra để mọi người ăn mừng đứa con đi hoang nay đã trở về nhà cha.
Ta thường gọi dụ ngôn này là dụ ngôn “đứa con hoang đàng”, nhưng có lẽ phải gọi là dụ ngôn “Người cha nhân hậu” mới đúng, vì nó cho ta biết về tình yêu của người cha hơn là về tội của người con.
Người cha hẳn đã mỏi mắt trông chờ đứa con trở về nhà, vì ông trông thấy con từ đàng xa. Khi con gặp cha thì cha liền tha thứ cho con và không một lời trách móc. Có nhiều cách tha thứ, có sự tha thứ được ban cho như một ân huệ, và tệ hơn nữa là khi một kẻ nào đó được tha thứ, nhưng bao giờ cũng kèm theo một dấu hiệu, một lời nói, một ngăm đe rằng tội người ấy vẫn còn giữ đó. Hôm nay đứa con đi hoang biết mình đáng bị trừng phạt. Do đó, nếu người cha trừng phạt thì nó cũng sẵn sàng chịu đựng. Lòng nó nhẹ đi. Nhưng nó không vui. Chính sự tha thứ của người cha mới đem lại cho nó niềm vui thực sự.
Truyện: Tổng thống Abraham Lincoln
Một lần kia, Lincoln được hỏi ông sẽ đối xử thế nào với quân phiến loạn miền Nam, khi họ thua trận và trở lại liên hiệp với Hoa Kỳ? Người hỏi câu ấy nghĩ rằng ông sẽ báo thù họ ghê gớm, nhưng Lincoln trả lời: “Tôi sẽ đối xử với họ dường như chưa bao giờ họ ly khai với chúng tôi”.
Đây là một dụ ngôn có tầm vóc thần học. Dụ ngôn của ân huệ Chúa ban cho con người. Dụ ngôn về tình yêu nhưng không Cha ban cho mọi người, dầu tội lỗi mấy đi nữa. Cha muốn họ tham dự niềm vui, muốn mời gọi họ khám phá ra tình huynh đệ chân chính. Làm sao không nhìn ra qua dụ ngôn này, Đức Giêsu muốn trao tặng cho chúng ta bí mật trong cách cư xử và đời sống của Ngài? Ngài là người Con được Cha sai đến loan báo sự hoà giải cho các tội nhân. Đó là những người mà Đức Giêsu khắc hoạ hình ảnh nơi người em và đó cũng là những người được mời gọi nhận ra chính mình nơi hình ảnh của người anh (Fiches dominicales).
Truyện: Đứa con hoang đàng của Phật giáo
Trong giáo lý nhà Phật cũng có câu chuyện gọi là “Dụ ngôn người con hoang đàng”. Câu chuyện kể về một người con bỏ cha, lên đường đi đến một nơi xa xôi sinh sống theo sự tự do phóng khoáng của mình. Vì ăn chơi thái quá anh trở nên nghèo khổ. Người cha ở nhà, sau bao năm tháng chờ đợi không thấy con trở về, đành lên đường đi tìm con. Sau nhiều năm tìm kiếm, hỏi han, người cha đã tìm ra được tung tích của người con mình. Nhưng người con lại không thể nào nhận ra được cha nó, một ông già đầy quyền lực và cao sang. Người con vẫn tiếp tục từ chối và lẩn trốn. Người cha rất đau lòng để con mình lẩn trốn như vậy, nhưng ông ra lệnh cho gia nhân theo dõi cậu, mướn cậu vào nhà làm việc cho ông. Sau đó, người cha vứt bỏ quần áo sang trọng, ngọc ngà của mình đi, đóng vai một người đầy tớ, để có cơ hội gần gũi và chinh phục người con. Qua nhiều năm thân thiết người cha đã chinh phục được trọn vẹn tình cảm của cậu. Sau cùng vào cuối đời, người cha mới tiết lộ cho biết: anh là con của ông và được quyền thừa kế tất cả gia tài của cha để lại (Nguyễn Văn Thái, Sống lời Chúa giữa dòng đời, năm C, tr 128).
Câu chuyện này không khác gì lịch sử cứu độ của Thiên Chúa đối với loài người. Thiên Chúa luôn yêu thương tìm kiếm con người. Còn con người cứ lẩn trốn, để rồi sau cùng, Thiên Chúa phải sai Con Một xuống thế, làm người đầy tớ đau khổ (Is 53,10-12), dùng cái chết của mình để thuyết phục và nói cho con người biết chức vị làm con cái Thiên Chúa của mình với quyền thừa kế hạnh phúc đời đời trên Nước trời (Ga 3,16-17).
2. Người con đi hoang đã mất nay lại tìm thấy
Người con thứ được xác định là một tay ăn chơi trác táng… Nhưng khi đã hết nhẵn tiền thì anh mới cảm thấy hối tiếc cho bản thân mình. Nỗi đau của bản thân khiến anh nhận ra được nỗi đau, mà anh đã gây ra cho người cha của anh. Do đó, anh tự nhủ “Tôi sẽ trở về với cha tôi, và xin lỗi người”. Đây là một quyết định can đảm, vì đã thất bại và còn vác mặt về mà xin lỗi thì thật là xấu hổ.
Đúng thế, thật dễ dàng trở về nhà, khi bạn là một người anh hùng, với chiến công và vinh quang. Nhưng đứa con hoang đàng không có một chiến công nào để đem về cho anh, anh không hề có thành quả nào, để nhờ đó, anh xứng đáng được khen ngợi, đón tiếp và yêu thương. Anh đang trở về nhà, với đôi bàn tay trống rỗng. Tệ hơn nữa, anh đang trở về nhà, lòng nặng trĩu xấu hổ và nhục nhã.
Nhưng thật ngạc nhiên, khi người cha nhìn thấy anh trở về đang tiến lại với ông, ông liền chạnh lòng thương, và một phút sau đó, cha con đã ôm chầm lấy nhau. Người cha đã không chỉ chấp nhận cho anh trở về, mà còn đón tiếp anh nữa. Tất cả tội lỗi của anh đều được tha thứ.
Phát hiện vĩ đại nhất mà người con hoang đàng đã nhận ra: đó là anh vẫn được yêu thương, trong tình trạng tội lỗi của anh. Người cha không bao giờ ngừng yêu thương anh. Trong tấm lòng nhân hậu của người cha, anh luôn được yêu thương, đó không những là một điều tốt, nhưng khi vẫn được yêu thương ngay trong tình trạng tội lỗi, thì quả là một cảm nghiệm tuyệt vời.
Sự tha thứ của Thiên Chúa không phải là sự tha thứ lạnh lùng, nửa vời, nhưng là sự tha thứ nồng ấm và quảng đại. Thiên Chúa không chỉ tha thứ cho chúng ta, mà Ngài còn yêu thương chúng ta, và để cho chúng ta nhận biết được tình yêu thương đó (McCarthy).
“Giây phút người con hoang đàng quỳ gối và khóc lóc, anh ta đã biến cảnh lãng phí tài sản của mình bên những cô gái điếm, cảnh chăn heo và thèm khát những thức ăn của heo, trở thành những giây phút đẹp đẽ và thánh thiện trong cuộc đời của mình. Hầu hết mọi người khó mà thấu hiểu được ý tưởng đó. Tôi dám nói rằng người ta phải chịu cảnh tù tội, thì mới thấu hiểu được điều đó. Nếu như vậy, thì có thể thời gian sống trong tù thật đáng giá” (Oscar Wilde).
Truyện: Chúa quên hết tội rồi
Một bà già thường đến gõ phòng cha xứ, kể cho ngài nghe rằng đêm qua Chúa mới hiện ra với bà. Để làm bà nản lòng đừng đến nữa, Cha xứ bảo:
- Lần sau, nếu Chúa có hiện ra, bà hãy hỏi Ngài “Cha xứ con có tội gì nặng nhất? Sau đó tới kể cho tôi nghe”.
Mấy ngày sau, bà già không đến nữa. Cha xứ mừng thầm, vì bà đã trúng kế của Ngài. Nhưng một tuần sau đó, bà già trở lại.
- Thưa cha, tối hôm qua Chúa lại hiện ra với con.
- Thế bà có hỏi Ngài không?
- Thưa có chứ.
Cha xứ bắt đầu hồi hộp:
- Bà hỏi thế nào?
- Thì con hỏi y như Cha đã bảo: “Cha xứ con có tội gì nặng nhất?”
Cha xứ càng hồi hộp thêm:
- Vậy Chúa có trả lời không?
- Có chứ.
Bây giờ thì cha xứ lo lắng thật sự:
- Chúa nói sao?
- Chúa nói: “Ta đã quên hết rồi!”.
Cha xứ thở phào nhẹ nhõm. (Kể theo ĐHY P.X. Nguyễn Văn Thuận)
3. Người anh cả bất hợp tác
Người anh cả trở về nhà và anh thực sự buồn rầu, vì em của anh đã trở về. Người anh cả đại diện cho các giáo sĩ Do thái tự kiêu, tự mãn, họ thà xem thấy tội nhân bị tiêu diệt hơn là được cứu. Anh ta trách em về những lầm lạc của nó. Đây là một dấu chỉ cho thấy anh ta không hiểu lòng tốt của cha. Bao lâu anh này còn quá tự tin vào bản thân và những công trạng của mình, ganh ghét và khinh bỉ, đầy chua xót và giận dữ, không hoán cải và giao hoà với cha và với em mình, thì bàn tiệc chưa thể hoàn toàn là bữa tiệc liên hoan mừng cuộc gặp gỡ và tái ngộ.
Thái độ của người anh cả đối với người em trai phản ảnh lại thái độ của người biệt phái đối với tội nhân. Mặc dù là những người rất đạo đức, nhưng họ vẫn cho rằng tội lỗi xứng đáng bị kết án hơn là cứu độ. Nhưng lòng đạo đức có công dụng gì, nếu nó không làm cho người ta trở nên thương cảm hơn đối với những kẻ bị sa ngã? Nếu chúng ta tự nhận thấy mình thông cảm với người anh cả, thì điều này càng chứng tỏ rằng tính cách người biệt phái đó đang ở trong chúng ta. Người anh cả này ghen tức chỉ muốn ông bố giết quách đứa em đi cho bõ ghét, không thể tha thứ được.
Truyện: Người cha giết con
Nhà truyền giáo T.R. Stevenson ở Thượng Hải kể: một thương gia giàu có ở Quảng Đông có hai con trai. Người con lớn thường kết bè tụ đảng với bọn bất lương phá phách xóm làng. Một lần, quá túng, hắn dẫn cả một băng về cướp ngay tại nhà mình. Khi tội hắn bị lộ, người cha cho người đến nói với hắn: nếu biết đường cải tà quy chính thì sẽ được tha. Người nhắn còn bảo đây là lần gia ân cuối cùng của ông chủ. Hắn chầm chậm đứng lên và quay về nhà cha. Một bữa tiệc đón tiếp xem ra cũng vui vẻ, nhưng trong đĩa thức ăn của hắn có bỏ thuốc độc. Hắn chết ngay đêm đó, nhưng người cha không bị ra toà, vì theo luật Trung Hoa, cha có quyền giết con.
Từ câu chuyện này, các nhà truyền giáo thường đem đối chiếu với chương 15 Tin mừng theo thánh Luca mà chúng ta đọc hôm nay. Suy nghĩ về dụ ngôn này, chúng ta dễ cảm thông với người con hoang đàng và dễ lên án thái độ cố chấp của người anh cả. Nhưng rồi sự suy nghĩ ấy lại đưa chúng ta đến một suy nghĩ khác:
Nói người phải nghĩ đến ta
Suy đi nghĩ lại hoá ra chính mình.
Người cha có hai người con: người con đây là ai? Và đứa con hoang đàng chỉ ai? Các nhà chú giải không đồng ý kiến. Các nhà chú giải thời xưa cho rằng: người con cả chỉ người Do thái, con hoang đàng chỉ dân ngoại.
Ngày nay quan niệm đó hầu như bị bỏ, mà còn hai ý kiến sau đây:
- Một ý kiến cho rằng: con cả chỉ người biệt phái, con hoang đàng chỉ tội nhân. Người biệt phái lẩm bẩm kêu trách Chúa vì thái độ đối với tội nhân.
- Ý kiến thứ hai cho rằng: con cả chỉ người lành, con hoang đàng chỉ tội nhân. Kẻ lành không hiểu được thái độ Chúa đối với tội nhân trở lại.
Xem chừng người ta nghiêng về ý kiến thứ nhất.
Chúng ta là hạng người nào? Dầu là anh cả, dầu là đứa con hoang đàng, tất cả đều phải sám hối, đều phải trở về, đừng cứng lòng trước ơn Chúa. Trong cuốn Au gré de sa grâce, linh mục André Louf có đề cập đến không những kẻ tội lỗi cứng lòng (pécheurs endurcis), mà còn những người ngay chính (justes endurcis) cũng cứng lòng nữa. Người con hoang đàng là hình ảnh của những người tội lỗi, còn người anh cả có thể là hình ảnh của những người ngay chính cứng lòng. Người tự coi mình công chính, đạo đức mà cứng lòng và tự mãn thì thật khó mà sám hối, trở về.
Có lẽ thái độ của người anh tự coi mình công chính và ganh tị là hình ảnh gợi cho tất cả chúng ta, những người cảm thấy mình làm mọi sự đều đúng, đều tốt đẹp và đạo đức. Chúng ta biết mình là người tốt, nên dễ dàng phê phán những người khác. Chúng ta đã mang trong mình tự mãn, vì nghĩ rằng Thiên Chúa đang ngự trị trong đời sống của mình.
Chúng ta đã ở vào giữa Mùa chay, chỉ còn một thời gian nữa là đến lễ Phục sinh. Mùa chay là mùa được kêu mời trở lại, chúng ta hãy can đảm nhận khuyết điểm, sai phạm của mình, để mạnh dạn trở về cùng Chúa, cùng Giáo hội của Ngài. Thiên Chúa nhân từ trong vai người cha nhân hậu và yêu thương hôm nay, bảo đảm cho sự lầm lỗi của con người yếu đuối, sẽ được tha thứ. Ngài là Cha của tất cả mọi người, Ngài đang chờ đợi từng người một trở về.
Đừng nghĩ rằng tội lỗi mình quá nặng, nên không thể giao hoà với Chúa. Cũng đừng cho rằng ân sủng của Chúa không đủ để phục hồi tội lỗi của mình. Hãy thống hối, hãy trở về, sẽ được thứ tha hết mọi lỗi lầm lớn nhỏ. Hãy tạ ơn Chúa, vì tạ ơn là có khả năng ý thức mình là kẻ có tội, và từ đó tập chú vào lòng yêu thương tha thứ của Thiên Chúa.
4. Suy niệm (Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.)
MỞ TIỆC ĂN MỪNG
Tâm sự của Con Thứ
Người ta hay bảo là tôi bất hiếu.
Cha còn sống mà đòi chia gia tài, rồi bỏ nhà ra đi.
Thật ra sống với cha và người anh mãi rồi cũng chán.
Tôi muốn thay đổi môi trường bị bó hẹp.
Có những vùng xa vẫy gọi, đến đó chắc vui hơn.
Cha tôi là người thương con và tôn trọng tự do của con,
nên ông chẳng phản đối gì, ông nghĩ là tôi đã đủ khôn lớn.
Thế là tôi lên đường, tự tin và kiêu hãnh.
Tôi đã tận hưởng những khoái lạc chỉ có trong mơ,
và chẳng mấy chốc, khối gia tài lớn đã tiêu tán.
Khi tôi tay trắng thì nạn đói ập đến vùng ấy.
Tôi phải đi chăn heo cho một người dân trong vùng,
nhưng vẫn không tránh được cái đói hành hạ.
Tôi bị vỡ mộng vì cái vùng mà tôi tưởng là thiên đàng
lại là cái vùng đói, vùng đưa tôi đến chỗ ở đợ.
Khi rơi vào sự cùng quẫn và bị đe dọa bởi cái chết,
tôi liền nghĩ đến chuyện trở về với cha.
Tôi chợt hiểu tất cả là do tôi, do tội của tôi.
Nếu trở về, tôi sẽ phải đối diện với nhiều thách đố.
Cha tôi và người anh cả có đón nhận tôi không?
Gia nhân và hàng xóm láng giềng sẽ nghĩ sao về tôi?
Chẳng ai muốn trở về trong nhục nhã, xấu hổ.
Dù sao tôi cũng phải về, không chỉ vì sắp chết đói,
nhưng để nói một lời xin lỗi cha tôi.
Tâm sự của Con Cả
Từ ngoài đồng về, được gia nhân báo cho biết
cả nhà đang ăn mừng vì anh con thứ trở về,
tôi nổi giận, như phát điên lên.
Tôi không thể vào nhà để dự tiệc được.
Mở đại tiệc với bê béo, có khách mời, có ca vũ nhạc,
để mừng đứa con hư hỏng trở về,
tôi không hiểu sao cha tôi lại làm chuyện như vậy.
Khi cha tôi đi ra, năn nỉ tôi vào,
tôi đã nói thẳng với cha về sự bất công tôi phải chịu.
Bao năm phụng dưỡng cha, chẳng được một con dê nhỏ,
còn đứa con phung phá trở về lại giết bê béo ăn mừng.
Nhiều người cho rằng vào nhà ăn mừng là chuyện dễ.
Họ đâu biết rằng làm sao dự tiệc được khi không vui,
làm sao ngồi cạnh người mà tôi không muốn nhìn mặt.
Tôi thấy rõ cha tôi vui như chưa bao giờ vui đến thế.
Nhưng tôi xin lỗi, tôi không thể vui với cha tôi được.
Tôi như người đứng ngoài, lạnh lùng, dửng dưng.
Tâm sự của Người Cha
Có người bảo tôi là người cha nhu nhược,
vì tôi đã chạy ra để đón đứa con thứ,
đã đi ra năn nỉ đứa con cả.
Họ không hiểu được tấm lòng của người cha,
chẳng muốn mất đứa con nào, vì cả hai đều quý.
Tôi không đi tìm đứa con thứ, vì biết nó sẽ trở về.
Tôi đã ngóng trông và thấy nó trước khi nó thấy tôi.
Khi ôm chầm lấy nó mà hôn, tôi không thấy mùi heo.
Tôi chỉ thấy mùi quen thuộc của con tôi,
đứa con đã mất nay lại thấy, đã chết nay sống lại.
Tiếc là đứa con cả không hiểu tôi.
Phải nhận nó là đứa con tử tế, lúc nào cũng ở với cha,
nhưng nó cứ tưởng cha chỉ yêu đứa nào tử tế thôi.
Nó không biết là tôi yêu cả đứa con hư hỏng,
thậm chí có vẻ yêu nhiều hơn, khi nó ăn năn trở về.
Nó phàn nàn và ganh tỵ vì nghĩ tôi không công bằng,
nên tôi phải nhắc nhở: tất cả cơ nghiệp này là của nó.
Bữa tiệc này sẽ chẳng trọn vẹn nếu nó vẫn không vào.
Tôi muốn hai đứa con tôi ngồi bên nhau.
Tôi muốn đứa con cả nói với con thứ của tôi:
“Em cứ ở nhà, đừng đi nữa, cha và anh sẽ lo cho em!”
LỜI NGUYỆN
Lạy Thầy Giêsu,
thật là khó khi phải giữ thái độ khoan dung
đối với những ai đang gây ra bất công và đau khổ
cho bao người trên thế giới và trong Giáo Hội.
Chúng con muốn bứng gốc sự dữ ra khỏi địa cầu,
và làm cho Giáo Hội chỉ gồm những người thánh thiện.
Nhưng lạy Thầy Giêsu,
Thầy lại muốn chúng con để cỏ lùng sống chung với lúa,
và để cả hai cùng lớn lên cho đến mùa gặt.
Chúng con hiểu tại sao ác nhân vẫn tung hoành,
và Xatan dường như thắng thế trong cuộc chiến hiện tại.
Thầy cho chúng con thấy khuôn mặt của Chúa Cha,
Đấng kiên nhẫn chờ con người hối cải,
Đấng cho mặt trời sáng trên kẻ dữ,
và mưa rơi trên ác nhân.
Thầy cũng cho chúng con thấy khuôn mặt của Thầy,
Đấng không bẻ gãy cây lau bị giập,
không làm tắt tim đèn còn khói.
Xin Thầy dạy chúng con biết cách chấp nhận
cuộc xung đột kéo dài đến tận thế
giữa con cái ánh sáng và con cái tối tăm,
giữa lúa tốt và cỏ lùng.
Và xin cho chúng con tin rằng
chiến thắng cuối cùng
sẽ thuộc về ánh sáng và sự thiện,
công lý và tình yêu.