Lời Chúa Ngày 21/12/2025: Chúa nhật 4 mùa Vọng năm A (Mt 1,18-24)

Lời Chúa Là Ngọn Đèn Soi Con Bước

"Là Ánh Sáng Chỉ Đường Con Đi"

Lời Chúa Ngày 21/12/2025: Chúa nhật 4 mùa Vọng năm A (Mt 1,18-24)

Lời Chúa Ngày 21/12/2025: Chúa nhật 4 mùa Vọng năm A (Mt 1,18-24)

Đức Giê-su sinh làm con bà Ma-ri-a.
Bà đã thành hôn với ông Giu-se, con cháu vua Đa-vít.

Bài đọc 1: Is 7, 10-14

Này đây người trinh nữ sẽ mang thai.

Bài trích sách ngôn sứ I-sai-a.

10 Khi ấy, Đức Chúa sai ngôn sứ I-sai-a nói với vua A-khát rằng:

11“Ngươi cứ xin Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi
ban cho ngươi một dấu
dưới đáy âm phủ hoặc trên chốn cao xanh.”

12Vua A-khát trả lời:
“Tôi sẽ không xin, tôi không dám thử thách Đức Chúa.”

13Ông I-sai-a bèn nói: “Nghe đây, hỡi nhà Đa-vít,
các ngươi làm phiền thiên hạ chưa đủ sao,
mà còn muốn làm phiền cả Thiên Chúa của tôi nữa?

14Vì vậy, chính Chúa Thượng sẽ ban cho các ngươi một dấu:
Này đây người trinh nữ sẽ mang thai, sẽ sinh hạ con trai,
và đặt tên là Em-ma-nu-en.”

 

Đáp ca: Tv 23, 1-2.3-4ab.5-6 (Đ. x. c.7c và 10b)

Đ.Chúa sẽ ngự vào: chính Người là Đức Vua vinh hiển.

1Chúa làm chủ trái đất cùng muôn vật muôn loài,
làm chủ hoàn cầu với toàn thể dân cư.
2Nền trái đất, Người dựng trên biển cả,
đặt vững vàng trên làn nước mênh mông.

Đ.Chúa sẽ ngự vào: chính Người là Đức Vua vinh hiển.

3Ai được lên núi Chúa?
Ai được ở trong đền thánh của Người?
4abĐó là kẻ tay sạch lòng thanh,
chẳng mê theo ngẫu tượng.

Đ.Chúa sẽ ngự vào: chính Người là Đức Vua vinh hiển.

5Người ấy sẽ được Chúa ban phúc lành,
được Thiên Chúa cứu độ thưởng công xứng đáng.
6Đây chính là dòng dõi những kẻ kiếm tìm Người,
tìm thánh nhan Thiên Chúa nhà Gia-cóp.

Đ.Chúa sẽ ngự vào: chính Người là Đức Vua vinh hiển.

 

Bài đọc 2: Rm 1, 1-7

Xuất thân từ dòng dõi vua Đa-vít, Đức Giê-su Ki-tô là Con Thiên Chúa.

Khởi đầu thư của thánh Phao-lô tông đồ gửi tín hữu Rô-ma.

1 Tôi là Phao-lô, tôi tớ của Đức Ki-tô Giê-su; tôi được gọi làm Tông Đồ, và dành riêng để loan báo Tin mừng của Thiên Chúa. 2 Tin mừng ấy, xưa Người đã dùng các ngôn sứ của Người mà hứa trước trong Kinh Thánh. 3 Đó là Tin mừng về Con của Người là Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta.

Xét như một người phàm, Đức Giê-su Ki-tô xuất thân từ dòng dõi vua Đa-vít. 4 Nhưng xét như Đấng đã từ cõi chết sống lại nhờ Thánh Thần, Người đã được đặt làm Con Thiên Chúa với tất cả quyền năng.

5 Nhờ Người, chúng tôi đã nhận được đặc ân và chức vụ Tông Đồ, làm cho hết thảy các dân ngoại vâng phục Tin mừng hầu danh Người được rạng rỡ. 6 Trong số đó, có cả anh em, là những người đã được kêu gọi để thuộc về Đức Giê-su Ki-tô.

7 Kính gửi tất cả anh em ở Rô-ma, những người được Thiên Chúa yêu thương, được kêu gọi làm dân thánh.

Xin Thiên Chúa là Cha chúng ta, và xin Chúa Giê-su Ki-tô ban cho anh em ân sủng và bình an.

 

Tin mừng: Mt 1, 18-24

18 Sau đây là gốc tích Đức Giê-su Ki-tô: bà Ma-ri-a, mẹ Người, đã thành hôn với ông Giu-se. Nhưng trước khi hai ông bà về chung sống, bà đã có thai do quyền năng Chúa Thánh Thần.

19 Ông Giu-se, chồng bà, là người công chính và không muốn tố giác bà, nên mới định tâm bỏ bà cách kín đáo.

20 Ông đang toan tính như vậy, thì kìa sứ thần Chúa hiện đến báo mộng cho ông rằng: “Này ông Giu-se, con cháu Đa-vít, đừng ngại đón bà Ma-ri-a vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần.

21 Bà sẽ sinh con trai và ông phải đặt tên cho con trẻ là Giê-su, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ.”

22 Tất cả sự việc này xảy ra là để ứng nghiệm lời Chúa phán xưa qua miệng ngôn sứ: 23 Này đây, Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Em-ma-nu-en, nghĩa là “Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta”.

24 Khi tỉnh giấc, ông Giu-se làm như sứ thần Chúa dạy, và đón vợ về nhà.

 

Giáo lý cho bài giảng Chúa nhật 4 mùa Vọng năm A

WHĐ (16/12/2025) - Để hỗ trợ các nhà giảng thuyết thuận tiện hơn trong việc thêm giáo lý vào bài giảng, Ban Biên tập xin được trích dẫn những điểm giáo lý phù hợp với các bài đọc Kinh thánh của lễ Chúa nhật 4 mùa Vọng năm A theo sự hướng dẫn của Bộ Phụng tự và Kỷ luật các Bí tích.

Số 495-507: Chức năng làm Mẹ đồng trinh của Đức Maria

Số 437, 456, 484-486, 721-726: Đức Maria làm Mẹ Đức Kitô bởi Phép Đức Chúa Thánh Thần

Số 1846: Chúa Giêsu - Đấng Cứu Độ được mạc khải cho Thánh Giuse

Số 445, 648, 695: Tư cách Con Thiên Chúa của Đức Kitô trong sự Phục sinh của Người

Số 143-149, 494, 2087: Sự vâng phục của đức tin

Bài Ðọc I: Is 7, 10-14

Bài Ðọc II: Rm 1, 1-7

Phúc Âm: Mt 1, 18-24

 

Số 495-507: Chức năng làm Mẹ đồng trinh của Đức Maria

Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa

Số 495. Trong các sách Tin Mừng, Đức Maria được gọi là “Thân mẫu Chúa Giêsu” (Ga 2,l; l9,25)[1]. Cả trước khi Con Mẹ chào đời, dưới sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần, Mẹ đã được gọi là “Thân mẫu Chúa tôi” (Lc 1,43). Quả thật, Đấng mà Mẹ đã cưu mang làm người bởi phép Chúa Thánh Thần, Đấng thật sự là Con Mẹ theo xác phàm, chính là Con vĩnh cửu của Chúa Cha, là Ngôi Hai trong Ba Ngôi chí thánh. Vì vậy, Hội Thánh tuyên xưng Đức Maria thật sự là Mẹ Thiên Chúa (Theotokos)[2].

Sự đồng trinh của Đức Maria

Số 496. Ngay trong các công thức đức tin đầu tiên[3], Hội Thánh đã tuyên xưng rằng Chúa Giêsu được thụ thai trong lòng Đức Trinh Nữ Maria là chỉ do quyền năng của Chúa Thánh Thần mà thôi, và Hội Thánh cũng khẳng định khía cạnh thể lý của biến cố này: Chúa Giêsu được thụ thai “bởi Chúa Thánh Thần, không có mầm giống nam nhân”[4]. Các Giáo Phụ nhận ra việc thụ thai đồng trinh là dấu chỉ của việc Con Thiên Chúa thật sự đã đến trong bản tính nhân loại như chúng ta.

Thánh Ignatiô Antiôchia (đầu thế kỷ II) dạy: “Tôi đã nhận thấy anh em… xác tín rằng Chúa chúng ta, thật sự xuất thân từ dòng dõi vua Đavid theo xác phàm[5], là Con Thiên Chúa theo ý định và quyền năng Thiên Chúa[6], Người đã thật sự được sinh ra bởi một trinh nữ;… Người đã thật sự chịu đóng đinh trong thân xác vì chúng ta, thời quan Phongxiô Philatô…. Người đã thật sự chịu khổ hình cũng như đã thật sự sống lại”[7].

Số 497. Các trình thuật Tin Mừng[8] hiểu việc thụ thai đồng trinh như một công trình của Thiên Chúa, vượt quá mọi hiểu biết và mọi khả năng nhân loại[9]: Thiên thần đã nói với ông Giuse về Đức Maria, hien thê của ông rằng: “Người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần” (Mt l,20). Hội Thánh nhận ra đây là việc thực hiện lời hứa của Thiên Chúa qua miệng tiên tri Isaia: “Này đây, Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai” (Is 7,l4), theo bản Hy lạp của Mt 1,23.

Số 498. Đôi lúc, người ta lúng túng vì sự im lặng của Tin Mừng Marcô và các thư Tân Ước đối với việc thụ thai đồng trinh của Đức Maria. Người ta cũng tự hỏi không biết đây có phải là huyền thoại hay là luận điểm thần học không chứng cớ lịch sử. Về vấn đề này, phải trả lời rằng: đức tin vào việc Mẹ Maria thụ thai Chúa Giêsu mà còn đồng trinh, đã bị người Do Thái và lương dân vô tín chống đối mãnh liệt, chế diễu hoặc hiểu sai[10]: đức tin đó không phát sinh từ huyền thoại ngoại giáo hoặc từ sự mô phỏng nào đó theo các ý tưởng đương thời. Ý nghĩa của biến cố này chỉ có thể hiểu được nhờ đức tin, khi nhìn biến cố đó “trong sự nối kết chính các mầu nhiệm với nhau”[11], nghĩa là trong toàn bộ các mầu nhiệm của Đức Kitô, từ việc Nhập Thể cho đến cuộc Vượt Qua của Người. Thánh Ignatiô Antiôchia đã nêu rõ sự nối kết này: “Thủ lãnh thế gian không hề biết đến việc Đức Maria đồng trinh, việc Mẹ sinh con cũng như việc Chúa chịu chết: ba mầu nhiệm này thật vẻ vang nhưng đã được Thiên Chúa âm thầm thực hiện”[12].

Đức Maria “trọn đời đồng trinh”

Số 499. Việc suy niệm sâu xa hơn trong đức tin về việc Đức Maria đồng trinh mà làm mẹ, đã đưa Hội Thánh đến chỗ tuyên xưng Đức Maria thật sự và trọn đời đồng trinh[13], cả trong khi sinh hạ Con Thiên Chúa làm người[14]. Thật vậy, việc sinh hạ Đức Kitô “không làm suy giảm nhưng thánh hiến sự trinh khiết vẹn toàn” của Mẹ[15]. Phụng vụ của Hội Thánh tôn vinh Mẹ là Aeiparthenos, “Đấng trọn đời đồng trinh”[16].

Số 500. Về điều này, đôi khi người ta phản đối rằng Thánh Kinh có nhắc đến các anh em và chị em của Chúa Giêsu[17]. Hội Thánh vẫn luôn hiểu rằng những đoạn văn này không hề ám chỉ những người con khác của Đức Trinh Nữ Maria: ông Giacôbê và ông Giuse, “anh em cua Chúa Giêsu” (Mt l3,55), thật ra là con của một bà Maria nào đó là môn đệ của Đức Kitô[18], bà này được cẩn thận phân biệt là “bà Maria khác” (Mt 28,l). Đây là những người anh em bà con họ hàng gần, theo như cách nói quen dùng trong Cựu Ước[19].

Số 501. Chúa Giêsu là người Con duy nhất của Đức Maria. Nhưng tình mẫu tử thiêng liêng của Mẹ[20] trải rộng cho hết mọi người đã được Chúa Giêsu đến cứu độ. “Người Con mà Mẹ sinh ra, Thiên Chúa đã đặt ‘làm trưởng tử giữa một đàn em đông đúc’ (Rm 8,29), tức là các tín hữu, mà Mẹ đã cộng tác vào việc sinh hạ và dạy dỗ họ với tình yêu từ mẫu”[21].

Chức năng làm Mẹ đồng trinh của Đức Maria trong kế hoạch của Thiên Chúa

Số 502. Cái nhìn của đức tin, liên kết với toàn bộ Mạc Khải, có thể khám phá ra những lý do huyền nhiệm mà vì đó, Thiên Chúa, trong kế hoạch cứu độ của Ngài, đã muốn Con của Ngài sinh ra bởi một trinh nữ. Những lý do này liên quan đến Ngôi Vị và sứ vụ cứu chuộc của Đức Kitô, cũng như đến việc Đức Maria chấp nhận góp phần vào sứ vụ này vì tất cả mọi người.

Số 503. Sự đồng trinh của Đức Maria cho thấy mầu nhiệm Nhập Thể tuyệt đối do Thiên Chúa khởi xướng. Chúa Giêsu chỉ có Thiên Chúa là Cha.[22] “Không bao giờ Người tách khỏi Chúa Cha vì con người mà Người đã đảm nhận…. Một mình Người vừa là Con Thiên Chúa vừa là Con Người. Xét về mặt bản tính, Người là Con của Chúa Cha trên trời theo thần tính, là Con của Đức Maria theo nhân tính; nhưng thật sự Người là Con Thiên Chúa trong hai bản tính”[23].

Số 504. Chúa Giêsu được thụ thai trong lòng Đức Trinh Nữ Maria bởi phép Chúa Thánh Thần, bởi vì Người là Ađam mới[24], người khởi đầu công trình tạo dựng mới: “Người thứ nhất bởi đất mà ra thì thuộc về đất; còn người thứ hai thì từ trời mà đến” (l Cr l5,47). Ngay từ lúc Người được thụ thai, nhân tính Đức Kitô đã tràn đầy Thần Khí, vì Thiên Chúa “ban Thần Khí cho Người vô ngần vô hạn” (Ga 3,34). “Từ nguồn sung mãn của Người”, của Đấng là đầu của nhân loại được cứu chuộc[25] mà “chúng ta đã lãnh nhận hết ơn này đến ơn khác” (Ga l,l6).

Số 505. Chúa Giêsu, Ađam mới, qua việc Người được thụ thai trong cung lòng đồng trinh, đã khởi đầu cuộc sinh hạ mới của những người được nhận làm nghĩa tử trong Chúa Thánh Thần nhờ đức tin. “Việc ấy sẽ xảy ra cách nào ?” (Lc l,34)[26]. Việc tham dự vào sự sống thần linh là điều “không phải do khí huyết, cũng chẳng do ước muốn của nhục thể, hoặc do ước muốn của người đàn ông, nhưng do bởi Thiên Chúa” (Ga l,l3). Sự sống mới này được đón nhận cách trinh khiết, bởi vì nó được tặng ban cho con người, hoàn toàn do bởi Chúa Thánh Thần. Ý nghĩa phu thê của ơn gọi của con người đến với Thiên Chúa[27] được thực hiện cách trọn hảo trong chức năng làm mẹ đồng trinh của Đức Maria.

Số 506. Đức Maria là một Trinh Nữ, bởi vì sự đồng trinh của Mẹ là dấu chỉ đức tin của Mẹ, một đức tin không pha trộn chút nghi ngờ nào[28] và là dấu chỉ sự tự hiến trọn vẹn của Mẹ cho thánh ý Thiên Chúa[29]. Chính nhờ đức tin mà Đức Maria trở thành Mẹ Đấng Cứu độ: “Đức Maria thật là diễm phúc vì Mẹ đã tin vào Đức Kitô hơn là vì Mẹ đã cưu mang thân xác Người”[30].

Số 507. Đức Maria vừa là Trinh Nữ vừa là Mẹ, bởi vì Mẹ là hình ảnh của Hội Thánh, là sự thể hiện toàn hảo nhất của Hội Thánh[31]. “Nhờ đón nhận lời Thiên Chúa cách trung thành, Hội Thánh được làm Mẹ: thật vậy, nhờ việc rao giảng và ban Phép Rửa, Hội Thánh sinh hạ những người con, được thụ thai bởi Chúa Thánh Thần, và được sinh ra bởi Thiên Chúa, để song đời sống mới và bất tử. Và Hội Thánh là Trinh Nữ, bởi đã gìn giữ cách toàn vẹn và tinh tuyền lòng tin vào Đức Phu Quân”[32].


Số 437, 456, 484-486, 721-726: Đức Maria làm Mẹ Đức Kitô bởi Phép Đức Chúa Thánh Thần

Số 437. Thiên thần đã loan báo cho các mục đồng việc Giáng Sinh của Chúa Giêsu, với tính cách là việc ra đời của Đấng Messia đã được hứa ban cho Israel: “Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành Vua Đavid, Người là Đấng Kitô, là Đức Chúa” (Lc 2,11). Ngay từ đầu, Chúa Giêsu là “Đấng Chúa Cha đã hiến thánh và sai đến thế gian” (Ga l0,36), với tư cách là “Đấng Thánh” (Lc 1,35) được cưu mang trong lòng dạ trinh khiết của Đức Maria[33]. Thánh Giuse được Thiên Chúa kêu gọi đón bà Maria vợ ông về, “vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần” (Mt 1,20), để Chúa Giêsu, “cũng gọi là Đấng Kitô” (Mt 1,16), được sinh ra do vợ ông Giuse trong dòng tộc thiên sai (in generatione messianica) của vua Đavid.[34]

Số 456. Cùng với Tín biểu Nicêa-Constantinôpôli, chúng ta tuyên xưng: “Vì loài người chúng ta và để cứu độ chúng ta, Người đã từ trời xuống thế. Bởi phép Đức Chúa Thánh Thần, Người đã nhập thể trong lòng Trinh Nữ Maria và đã làm người”[35].

Số 484. Biến cố Truyền tin cho Đức Maria mở đầu “thời gian tới hồi viên mãn” (Gl 4,4), nghĩa là, lúc hoàn thành các lời hứa và các sự chuẩn bị. Đức Maria được mời gọi cưu mang Đấng mà nơi Người “tất cả sự viên mãn của thần tính hiện diện cách cụ thể” (Cl 2,9). Lời phúc đáp thần linh cho vấn nạn của Mẹ: “Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng?” (Lc l,34) đã được đưa ra là nhờ quyền năng của Chúa Thánh Thần: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà” (Lc l,35).

Số 485. Sứ vụ của Chúa Thánh Thần luôn luôn được kết hợp với sứ vụ của Chúa Con và quy hướng về sứ vụ của Chúa Con[36]. Chúa Thánh Thần, là “Chúa và là Đấng ban sự sống”, được sai đến để thánh hoá cung lòng Đức Trinh Nữ Maria và làm cho Mẹ thụ thai một cách thần linh, khi tác động để Mẹ cưu mang Con vĩnh cửu của Chúa Cha trong nhân tính được đảm nhận từ nhân tính của Mẹ.

Số 486. Con Một của Chúa Cha, với tư cách một con người được thụ thai trong cung lòng Đức Trinh Nữ Maria, là “Đức Kitô”, nghĩa là Đấng được xức dầu bằng Chúa Thánh Thần[37], từ lúc khởi đầu sự hiện hữu nhân loại của Người, mặc dù việc Người tỏ mình ra sẽ được thực hiện dần dần: cho các mục đồng[38], cho các đạo sĩ[39], cho ông Gioan Tẩy giả[40], cho các môn đệ[41]. Vì vậy, toàn bộ cuộc đời của Chúa Giêsu Kitô sẽ biểu lộ “Thiên Chúa đã dùng Thánh Thần và quyền năng mà xức dầu tấn phong Người” (Cv 10,38) như thế nào.

“Mừng vui lên, hỡi người đầy ân phúc”

Số 721. Đức Maria, Mẹ rất thánh của Thiên Chúa, trọn đời đồng trinh, là công trình tuyệt tác của sứ vụ phối hợp giữa Chúa Con và Thần Khí lúc thời gian viên mãn. Trong kế hoạch cứu độ, bởi vì Thần Khí Thiên Chúa đã chuẩn bị Me, lần đầu tiên Chúa Cha đã tìm được Chỗ Ở, nơi Con của Ngài và Thần Khí của Ngài có thể cư ngụ giữa loài người. Theo ý nghĩa này, Truyền thống Hội Thánh thường đọc những bản văn đẹp nhất viết về đức Khôn Ngoan trong tương quan với Đức Maria[42]: trong phụng vụ Đức Maria được ca ngợi và được trình bày như là “Toà Đấng Khôn Ngoan”. Nơi Đức Maria, “những kỳ công của Thiên Chúa” mà Thần Khí sắp hoàn thành trong Đức Kitô và trong Hội Thánh, bắt đầu được biểu lộ.

Số 722. Chúa Thánh Thần đã dùng ân sủng của Ngài mà chuẩn bị Đức Maria. Mẹ của Đấng “nơi Người, tất cả sự viên mãn của thần tính hiện diện cách cụ thể” (Cl 2,9) tất phải “đầy ơn phúc”. Đức Maria đã được thụ thai, trong ân sủng thuần tuý, không hề có tội, với tư cách là người khiêm tốn nhất trong các thụ tạo, xứng đáng nhất trong mọi người để đón nhận hồng ân khôn tả của Đấng Toàn Năng. Thiên thần Gabriel chào Mẹ cách chính xác là “Con gái Sion”: “Kính mừng” (= “Mừng vui lên”)[43]. Chính Mẹ, trong bài thánh ca của mình[44], đã làm cho lời tạ ơn của toàn dân Thiên Chúa và của Hội Thánh lên tới Chúa Cha trong Chúa Thánh Thần, khi Mẹ cưu mang nơi mình Chúa Con vĩnh cửu.

Số 723. Nơi Đức Maria, Chúa Thánh Thần thực hiện kế hoạch nhân ái của Chúa Cha. Bởi Chúa Thánh Thần, Đức Trinh Nữ đã thụ thai và sinh hạ Con Thiên Chúa. Sự đồng trinh mà vẫn sinh con của Mẹ là độc nhất vô nhị nhờ quyền năng của Chúa Thánh Thần và của đức tin[45].

Số 724. Nơi Đức Maria, Chúa Thánh Thần làm tỏ hiện Con của Chúa Cha đã trở thành Con của Đức Trinh Nữ. Mẹ là bụi gai bừng cháy của cuộc Thần hiện tối hậu: chính Mẹ, được đầy tràn Chúa Thánh Thần, tỏ cho thấy Ngôi Lời trong xác phàm khiêm hạ của Người, và làm cho những kẻ nghèo hèn[46] và những của đầu mùa của các dân tộc[47] nhận biết Người.

Số 725. Cuối cùng, qua Đức Maria, Chúa Thánh Thần bắt đầu làm cho được hiệp thông với Đức Kitô, những người là đối tượng của tình yêu nhân ái của Thiên Chúa (“những người thiện tâm” của Thiên Chúa[48]), và những người khiêm hạ luôn luôn là những người đầu tiên đón nhận Người: các mục đồng, các đạo sĩ, ông Simêon và bà Anna, cô dâu chú rể ở Cana và các môn đệ đầu tiên.

Số 726. Vào cuối sứ vụ này của Chúa Thánh Thần, Đức Maria trở nên “Người Đàn Bà”, bà Evà mới, “Mẹ của chúng sinh”, Mẹ của “Đức Kitô toàn thể” (“totius Christi” Mater)[49]. Chính với tư cách này, Mẹ hiện diện với nhóm Mười Hai, “đồng tâm nhất trí chuyên cần cầu nguyện” (Cv 1,14), vào lúc bình minh của “thời đại cuối cùng” mà Thần Khí sắp khai mạc vào sáng ngày lễ Ngũ Tuần với việc làm tỏ hiện Hội Thánh.


Số 1846: Chúa Giêsu - Đấng Cứu Độ được mạc khải cho Thánh Giuse

Số 1846. Tin Mừng là sự mạc khải, trong Chúa Giêsu Kitô, lòng thương xót của Thiên Chúa đối với các tội nhân[50]. Thiên thần loan báo điều này cho ông Giuse: “Ông phải đặt tên con trẻ là Giêsu, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ” (Mt 1,21). Cũng chính điều đó được nói đến trong Thánh Thể, bí tích của Ơn cứu chuộc: “Đây là máu Thầy, máu Giao Ước, đổ ra cho muôn người được tha tội” (Mt 26,28).


Số 445, 648, 695: Tư cách Con Thiên Chúa của Đức Kitô trong sự Phục sinh của Người

Số 445. Sau khi Người phục sinh, tư cách Con Thiên Chúa của Đức Kitô tỏ rạng trong quyền năng của nhân tính được tôn vinh của Người. “Từ cõi chết sống lại nhờ Thánh Thần, Người đã được đặt làm Con Thiên Chúa với tất cả quyền năng” (Rm l,4)[51]. Các Tông Đồ có thể tuyên xưng: “Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người là Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật” (Ga l,l4).

Số 648. Sự Phục Sinh của Đức Kitô là đối tượng của đức tin, vì đó là sự can thiệp siêu việt của chính Thiên Chúa trong công trình tạo dựng và trong lịch sử. Trong biến cố này, Ba Ngôi Thiên Chúa vừa cùng hoạt động chung, vừa biểu lộ tính cách riêng biệt của mỗi Ngôi. Sự Phục Sinh được thực hiện do quyền năng của Chúa Cha, Đấng “đã làm sống lại” (Cv 2,24) Đức Kitô, Con của Ngài, và bằng cách đó, Chúa Cha đưa nhân tính của Người, cùng với thân thể của Người, vào Ba Ngôi một cách hoàn hảo. Chúa Giêsu được mạc khải một cách vĩnh viễn là “Đấng đã từ cõi chết sống lại nhờ Thánh Thần, Người đã được đặt làm Con Thiên Chúa với tất cả quyền năng” (Rm 1,4). Thánh Phaolô nhấn mạnh đến việc Thiên Chúa biểu lộ quyền năng[52] qua hoạt động của Chúa Thánh Thần, Đấng làm cho nhân tính đã chết của Chúa Giêsu được sống lại và kêu gọi nhân tính đó vào trạng thái vinh hiển của Chúa.

Số 695. Sự xức dầu. Sự xức dầu cũng là một biểu tượng nói về Chúa Thánh Thần, đến độ từ này trở thành đồng nghĩa với Chúa Thánh Thần[53]. Trong nghi thức khai tâm Kitô giáo, việc xức dầu là dấu chỉ bí tích của phép Thêm Sức, mà các Giáo Hội Đông phương gọi cách chính xác là “Sự Xức dầu thánh” (“Christmatio”)Nhưng để hiểu thật rõ, phải trở lại với cuộc xức dầu đầu tiên bởi Chúa Thánh Thần: cuộc xức dầu cho Chúa Giêsu. “Kitô” (tiếng Do thái là Messia) có nghĩa là “người được xức dầu” bằng Thần Khí Thiên Chúa. Trong Cựu Ước, có một số nhân vật là “những người được xức dầu” của Chúa[54], nổi bật là vua Đavid[55]. Nhưng Chúa Giêsu là Đấng Được Xức Dầu của Thiên Chúa một cách độc nhất vô nhị: nhân tính mà Chúa Con đảm nhận, “được xức dầu bằng Chúa Thánh Thần” một cách trọn vẹn. Chúa Giêsu được Chúa Thánh Thần thiết đặt làm “Đức Kitô”[56]. Đức Trinh Nữ Maria thụ thai Đức Kitô bởi Chúa Thánh Thần, Đấng đã dùng Thiên thần loan báo rằng Người là Đức Kitô khi Người giáng sinh[57], và là Đấng thúc đẩy ông Simêon đen đền thờ để ông được thấy Đức Kitô của Chúa[58]; Đức Kitô được đầy Thánh Thần[59], và sức mạnh của Chúa Thánh Thần xuất phát từ Đức Kitô trong những hành vi chữa lành và cứu độ của Người[60]. Cuối cùng chính Chúa Thánh Thần làm cho Chúa Giêsu sống lại từ cõi chết[61]. Lúc đó Chúa Giêsu, được thiết đặt làm Đức Kitô một cách trọn vẹn trong nhân tính đã chiến thắng sự chết của Người[62], tuôn đổ Chúa Thánh Thần cách tràn đầy cho đến khi “các Thánh”, trong sự kết hợp với nhân tính của Con Thiên Chúa, làm nên “con người trưởng thành tới tầm vóc viên mãn của Đức Kitô” (Ep 4,13), làm nên “Đức Kitô toàn thể” (“totum Christum”) theo cách nói của thánh Augustinô[63].


Số 143-149, 494, 2087: Sự vâng phục của đức tin

Số 143. Bằng đức tin, con người đem trí khôn và ý chí của mình quy phục Thiên Chúa cách trọn vẹn. Con người đặt trọn bản thân quy thuận Thiên Chúa, Đấng mạc khải[64]. Thánh Kinh gọi việc đáp lại này của con người đối với Thiên Chúa, Đấng mạc khải, là “sự vâng phục của đức tin”[65].

Sự vâng phục của đức tin

Số 144. Vâng phục (ob-audire: nghe, lắng nghe) bằng đức tin là tự nguyện quy thuận lời đã nghe, bởi vì chân lý của lời đó được Thiên Chúa là chính Chân Lý, bảo đảm. Thánh Kinh trưng dẫn tổ phụ Abraham như gương mẫu của sự vâng phục đó. Còn Đức Trinh Nữ Maria là người thể hiện sự vâng phục đó cách hoàn hảo.

Ông Abraham – “tổ phụ của tất cả những người tin”

Số 145. Thư gửi tín hữu Do thái, trong bài tán dương đức tin của các bậc tổ tiên, đã đặc biệt nhấn mạnh đến đức tin của ông Abraham: “Nhờ đức tin, ông Abraham đã vâng nghe tiếng Chúa gọi mà ra đi đến một nơi ông sẽ được lãnh nhận làm gia nghiệp, và ông đã ra đi mà không biết mình đi đâu” (Dt 11,8)[66]. Nhờ đức tin, ông đã sống như kẻ mới nhập cư và người lữ hành trong Đất hứa[67]. Nhờ đức tin, bà Sara đã thụ thai người con của lời hứa. Cuối cùng, nhờ đức tin, ông Abraham đã dâng hiến con một mình làm hy lễ[68].

Số 146. Như vậy, ông Abraham đã thực hiện điều Thư gửi tín hữu Do thái định nghĩa về đức tin: “Đức tin là bảo đảm cho những điều hy vọng, là bằng chứng của những điều ta không thấy” (Dt 11,1). “Ông Abraham đã tin Thiên Chúa, và vì thế được kể là người công chính” (Rm 4,3)[69]. “Nhờ niềm tin, ông đã nên vững mạnh” (Rm 4,20), ông Abraham trở thành “tổ phụ của tất cả những người tin” (Rm 4,11.18)[70].

Số 147. Cựu Ước rất phong phú về các chứng từ của đức tin ấy. Thư gửi tín hữu Do thái tán tụng đức tin gương mẫu, “nhờ đức tin ấy, các tiền nhân đã được Thiên Chúa chứng giám” (Dt 11,2.39). Tuy nhiên, “Thiên Chúa đã trù liệu cho chúng ta một phần phúc tốt hơn”: đó là ơn được tin vào Con của Ngài, la “Chúa Giêsu, Đấng khai mở và kiện toàn lòng tin” (Dt 11,40; 12,2).

Đức Maria – “Phúc thay người đã tin”

Số 148. Đức Trinh Nữ Maria thể hiện cách trọn hảo sự vâng phục của đức tin. Trong đức tin, Đức Maria đón nhận lời sứ thần Gabriel loan báo và đoan hứa, vì ngài tin rằng “đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được” (Lc 1,37)[71], và ngài bày tỏ lòng quy phục: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói” (Lc 1,38). Bà Êlisabét chào Đức Maria bằng những lời này: “Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Ngài đã nói với em” (Lc 1,45). Chính vì đức tin này mà Đức Maria sẽ được mọi đời khen là diễm phúc[72].

Số 149. Trong suốt cuộc đời của Đức Maria, và cho đến cuộc thử thách tột bậc[73], khi Chúa Giêsu Con ngài chết trên thập giá, đức tin của ngài đã không hề lay chuyển. Đức Maria không ngừng tin rằng lời Chúa sẽ “được thực hiện”. Vì vậy Hội Thánh tôn kính Đức Maria là người đã thể hiện đức tin một cách tinh tuyền nhất.

“Xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói…”

Số 494. Khi được loan báo rằng, mặc dù không biết người nam, mình sẽ hạ sinh “Con Đấng Tối Cao”, bởi quyền năng Chúa Thánh Thần[74], Đức Maria tin chắc chắn rằng, đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được, nên với “sự vâng phục của đức tin”[75], Mẹ đã trả lời: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói” (Lc l,37-38). Như vậy, khi nói lên sự ưng thuận của mình đối với lời Thiên Chúa, Đức Maria trở thành Mẹ Chúa Giêsu và với trọn tâm hồn, Mẹ chấp nhận ý định cứu độ của Thiên Chúa, mà không tội lỗi nào ngăn cản Mẹ, Mẹ tự hiến hoàn toàn cho con người và công trình của Con Mẹ, để, một cách tùy thuộc vào Người và cung với Người, nhờ ân sủng của Thiên Chúa, Mẹ phục vụ mầu nhiệm Cứu Chuộc[76].

Thánh Irênê nói: “Nhờ vâng phục, Đức Mẹ đã trở nên nguyên nhân ơn cứu độ cho chính mình và cho toàn thể nhân loại”[77]. Từ đó, cùng với thánh nhân, nhiều Giáo phụ xưa cũng giảng dạy rằng: “Nút dây do sự bất tuân của bà Evà thắt lại, nay được gỡ ra nhờ sự vâng phục của Đức Maria; điều mà trinh nữ Evà đã buộc lại do sự cứng lòng tin, Đức Trinh Nữ Maria đã tháo ra nhờ đức tin”[78]; và so sánh với bà Evà, các ngài gọi Đức Maria là “Mẹ chúng sinh”, và rất thường quả quyết rằng: “Sự chết qua bà Evà, sự sống qua Đức Maria”[79].

Đức tin

Số 2087. Đời sống luân lý của chúng ta bắt nguồn từ đức tin vào Thiên Chúa, Đấng mạc khải tình yêu của Ngài cho chúng ta. Thánh Phaolô nói đến sự vâng phục của đức tin[80] như là nghĩa vụ hàng đầu. Thánh nhân cho thấy rằng chính sự “không nhận biết Thiên Chúa” là nguyên nhân và lời giải thích cho mọi lệch lạc luân lý[81]. Bổn phận của chúng ta đối với Thiên Chúa là tin vào Ngài và làm chứng về Ngài.

 

Bài giảng Đức Thánh Cha - Chúa nhật 4 mùa Vọng năm A

Đây là những bài giảng và huấn dụ của Đức Thánh Cha trong các thánh lễ và các buổi đọc kinh Truyền tin với các tín hữu vào Chúa nhật 4 mùa Vọng năm A.

Đức Phanxicô, Huấn dụ Chúa nhật 4 mùa Vọng năm A (18/12/2022) - Đối diện với những giấc mơ tan vỡ

Đức Phanxicô, Huấn dụ Chúa nhật 4 mùa Vọng năm A (22/12/2019) - Thánh Giuse tin tưởng vào Thiên Chúa để đón nhận một con đường mới

Đức Phanxicô, Huấn dụ Chúa nhật 4 mùa Vọng năm A (18/12/2016) - Tiếp nhận Chúa Giêsu

Đức Phanxicô, Huấn dụ Chúa nhật 4 mùa Vọng năm A (22/12/2013) - Từ bỏ ý riêng

Đức Bênêđictô XVI, Huấn dụ Chúa nhật 4 mùa Vọng năm A (19/12/2010) - Thánh Giuse, người công chính

Đức Bênêđictô XVI, Huấn dụ Chúa nhật 4 mùa Vọng năm A (23/12/2007) - Sứ mạng loan báo tin mừng của Hội thánh

 

1. Suy niệm ( TGM Giuse Nguyễn Năng )

Suy niệm: Ðức Maria thụ thai không theo cách thức của người trần, nhưng được sự can thiệp do quyền năng Thánh Thần. Ðiều đó cho thấy: thai nhi có nguồn gốc là Thiên Chúa. Ðức Giêsu là Thiên Chúa thật, nhưng đồng thời Ngài cũng là con người thật như chúng ta. Ngài được cưu mang và được sinh ra. Dấu hiệu Người Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh con là dấu chứng tỏ: đó chính là Ðấng muôn dân trông đợi, là Ðấng ở giữa nhân loại.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, vì yêu nhân loại chúng con, Chúa đã muốn trở nên giống chúng con mọi sự, ngoại trừ tội lỗi. Chúa đã muốn làm người để chúng con trở thành con Thiên Chúa. Ôi cuộc trao đổi sao mà kỳ diệu! Chúng con xin thờ lạy và tạ ơn Chúa. Amen.

Ghi nhớ: “Chúa Giêsu sinh ra bởi Ðức Maria, đính hôn với Thánh Giuse con vua Ðavít”.

 

 2. Suy niệm (Lm Ignatio Hồ Văn Xuân) 

1. Bài đọc 1 : Is 7,10-16
1. Chúng ta vừa tham dự vào một trong những biến cố đau thương nhất trong lịch sử của dân tộc Ít-ra-en ; chúng ta đang ở vào khoảng năm 735 trước Công nguyên : vương quốc cũ của Đa-vít đã bị phân chia thành hai vương quốc nhỏ bé, từ khoảng hai trăm năm qua ; hai vua, hai thủ đô : Sa-ma-ri ở phía Bắc, Giê-ru-sa-lem ở phía Nam : chính tại Giê-ru-sa-lem mà dòng dõi vua Đa-vít đang cai trị, và từ dòng dõi này, Đấng Mê-si-a sẽ chào đời ; nhưng ngay lúc đó thì rõ ràng là Đấng Mê-si-a chưa sinh ra ! Một vị vua trẻ, mới hai mươi tuổi, vua A-khát, vừa lên ngôi vua tại Giê-ru-sa-lem, và ngay sau khi lễ đăng quang kết thúc, nhà vua phải đưa ra những quyết định hết sức khó khăn.
Tất cả chúng ta đều biết Kinh Thánh không phải là một quyển sách lịch sử theo nghĩa thông thường, và nếu lời của ngôn sứ I-sai-a được bảo tồn và truyền đạt cho chúng ta, là vì vấn đề được đặt ra cho vua A-khát là một vấn đề đức tin. Để có thể đưa ra những quyết định quan trọng, nhà vua phải dựa vào đức tin của mình, nghĩa là nhà vua chỉ tin tưởng một mình Thiên Chúa mà thôi : Thiên Chúa đã hứa sẽ cho dòng dõi vua Đa-vít trường tồn ; Thiên Chúa đã hứa thì chắc chắn Người sẽ giữ lời. Người không bao giờ bỏ rơi dân riêng của Người. Đó là niềm xác tín của ngôn sứ I-sai-a.
2. Nhưng thật ra, trách nhiệm của vị vua trẻ rất nặng nề, tình hình chính trị bấp bênh, vương quốc Giê-ru-sa-lem nhỏ bé đang bị kẹp giữa hai gọng kềm thù địch, đó là đế quốc Át-xy-ri lúc đó đang lên ở vùng Cận Đông, với thủ đô là Ni-ni-vê. Đế quốc này đe doạ cả vùng đó ; các chiến dịch quân sự của họ lan tới Đa-mát, Sy-ri và cả Sa-ma-ri ; vào năm 738, vua Đa-mát


và vua Sa-ma-ri bị đánh bại, bị bắt buộc phải đầu hàng và triều cống cho đế quốc Át-xy-ri.
Thế lực thứ hai chính là hai vương quốc nhỏ bé Sy-ri và Sa-ma-ri nổi loạn chống lại Ni-ni-vê và bao vây Giê-ru-sa-lem để truất phế vua A-khát và thay thế bằng một vị vua khác sẽ chấp nhận liên minh với họ trong cuộc chiến tranh giành độc lập chống lại Ni-ni-vê, vua A-khát kinh hoàng. Những câu đi trước bài đọc 1 hôm nay kể lại : “Lòng vua cũng như lòng dân đều rung động như cây rừng rung rinh trước gió” (Is 7,2). Ngôn sứ I-sai-a bắt đầu bằng việc mời gọi nhà vua bình tĩnh và tin tưởng Thiên Chúa, vì Chúa đã hứa cho dòng dõi vua Đa-vít trường tồn mãi mãi, mà Thiên Chúa đã hứa thì chắc chắn Người sẽ giữ lời vì Chúa là Đấng trung tín. Cho nên ngôn sứ I-sai-a khuyên nhà vua bình tĩnh đương đầu với những mối đe doạ hiện hữu, tin tưởng vào Chúa và các nguồn lực trong dân, và vị ngôn sứ nói thêm : “niềm tin chính là sự sống còn của nhà vua ; nếu nhà vua không tin Chúa, nhà vua và toàn thể dân Ít-ra-en sẽ không thể tồn tại trên mặt đất này”.
Nhưng vua A-khát không nghe lời ngôn sứ nữa ; nhà vua, người lưu giữ đức tin vào Thiên Chúa duy nhất, lại dâng lễ tế cho tất cả các vị thần, và điều đáng tiếc là nhà vua đã bắt chước các dân tộc khác mà làm một việc đáng ghê tởm là giết chết đứa con trai độc nhất của mình để tế thần. “Vua đã đi theo đường lối của các vua Ít-ra-en, và thậm chí còn làm lễ thiêu con trai mình” (2 V 16,3). Đây là một việc làm bị các ngôn sứ phản đối quyết liệt.
3. Vua A-khát chỉ thấy có một lối thoát : Để tránh mối đe doạ tức thời của hai ông bạn láng giềng là các vua Đa-mát và Sa-ma-ri, vua A-khát quyết định cầu viện hoàng đế Át-xy-ri : ngôn sứ I-sai-a phản đối quyết liệt giải pháp này, vì sẽ phải trả


giá ! Vua A-khát, khi cầu cứu hoàng đế Át-xy-ri sẽ mất sự độc lập về chính trị và tôn giáo : chỉ cần một quyết định sai lầm là xoá sạch toàn bộ công trình giải thoát do ông Mô-sê thực hiện. Do đó, ngôn sứ I-sai-a công bố những lời chúng ta vừa nghe trong bài đọc 1 hôm nay, ông nói vì nhà vua đã không tin, nên “hãy xin Đức Chúa một dấu dưới đáy âm phủ hoặc trên chốn cao xanh”, vì Chúa ngự trị khắp nơi.
Vua A-khát trả lời cho ngôn sứ I-sai-a một cách giả hình, vì nhà vua đã quyết định rồi và quyết định này hoàn toàn trái ngược với những lời khuyên của ngôn sứ I-sai-a, và tệ hơn nữa, nhà vua dám thiêu chết con trai độc nhất của mình để tế thần, đứa con trai thụ hưởng lời hứa của Đức Chúa : “Tôi sẽ không xin, tôi không dám thử thách Đức Chúa.” Tuy nhiên, ngôn sứ I-sai-a đâu phải là người dễ bị lừa gạt, ông nói : “Nghe đây, hỡi nhà Đa-vít, các ngươi làm phiền thiên hạ chưa đủ sao, mà còn muốn làm phiền cả Thiên Chúa của tôi nữa ?” Ngôn sứ I-sai-a nói “Thiên Chúa của tôi” vì ông cho rằng vua A-khát xử sự như một người không còn tuân giữ Giao ước với Đức Chúa nữa.
Đứng trước những bất trung bất nghĩa của vua A-khát, ngôn sứ I-sai-a cho biết Thiên Chúa vẫn luôn trung thành với lời hứa của mình, và đây là bằng chứng : “Này đây người trinh nữ sẽ mang thai, sẽ sinh hạ con trai, và đặt tên là Em-ma-nu-en, nghĩa là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta”, bởi vì dù là kẻ thù muốn truất phế vua A-khát và chính nhà vua đã thiêu chết con trai độc nhất của mình để tế thần, cũng không ngăn cản Thiên Chúa giữ lòng trung tín với lời hứa Người đã ban cho dòng dõi vua Đa-vít và dân tộc Ít-ra-en của ông.
Sau hết, lời hứa liên quan đến vị vua tương lai : “Người sẽ lãnh nhận Thần Khí Chúa để có thể biết bỏ cái xấu mà chọn cái tốt”, và lời hứa thứ hai đó là “trước khi vị vua này biết


bỏ cái xấu và chọn cái tốt (nghĩa là trước khi vị vua trưởng thành), thì hai vương quốc Xy-ri và Sa-ma-ri đã bị đế quốc Át-xy-ri nghiền nát”. Dù vua kế vị vua A-khát vẫn tiếp tục phản bội Giao ước, nhưng Thiên Chúa vẫn luôn trung thành với lời đã hứa cho dòng dõi vua Đa-vít và dân Ít-ra-en. Do đó, từ thế hệ này sang thế hệ kia, người ta vẫn tiếp tục giữ trong lòng mình lời hứa của Thiên Chúa ; với niềm xác tín rằng vào một ngày nào đó, sẽ xuất hiện một vị vua xứng đáng mang tên Em-ma-nu-en, Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta.
1.    Đáp ca : Tv 23
Thánh vịnh 23 kể lại việc Chúa ngự vào Đền Thánh. Chúng ta đang ở Đền Thờ Giê-ru-sa-lem. Một đám rước khổng lồ đang đến gần các cửa của Đền Thờ và hai ca đoàn hát đối đáp : “Ai được lên núi Chúa ? Ai được ở trong đền thánh của Người ?” Chúng ta nhớ ngôn sứ I-sai-a đã so sánh Thiên Chúa ba lần Thánh với ngọn lửa huỷ diệt ở chương 33, thì ông đặt ngay câu hỏi : “Ai trong chúng ta ở gần được lửa thiêu ? Ai trong chúng ta ở gần được hoả hào muôn kiếp ?” (Is 33,11.14), hiểu ngầm là tự sức mình, chúng ta không thể chịu đựng nổi cái nhìn của Thiên Chúa, ánh sáng rực rỡ phát ra từ nơi Người. Đó là tiếng kêu chiến thắng của dân Ít-ra-en : được Chúa chọn làm dân riêng của Người không phải vì công trạng gì của họ, nhưng chỉ vì lòng Chúa xót thương, vì tình yêu vô bờ của Người. Đó là mặc khải quan trọng nhất của dân Ít-ra-en : Thiên Chúa là Đấng Thánh, Đấng hoàn toàn khác : “Thánh ! Thánh ! Chí Thánh ! Ngàn trùng chí thánh ! Là Chúa Tể càn khôn.” Ngôn sứ I-sai-a đã viết trong cuộc xuất thần khi Chúa gọi ông làm ngôn sứ (Is 6), nhưng đồng thời, Thiên Chúa cũng là Đấng rất gần với con người.


1.    Bài đọc 2 : Rm 1,1-7
A.    Bài đọc 2 là những lời đầu tiên thánh Phao-lô gửi đến tín hữu Rô-ma ; chỉ trong vài hàng, chúng ta đã có một bảng tóm tắt đức tin Ki-tô giáo : những lời hứa của Thiên Chúa trong Kinh Thánh, mầu nhiệm Đức Ki-tô, sự giáng sinh và phục sinh của Người, việc tuyển chọn nhưng không dân thánh, và sứ vụ của các Tông Đồ đối với các dân ngoại.
Khi ngỏ lời với cộng đoàn tín hữu chưa bao giờ gặp, thánh Phao-lô tự giới thiệu : danh xưng “tôi tớ của Đức Ki-tô” và “Tông Đồ”, nghĩa là ngài được Chúa uỷ thác cho việc rao giảng Tin Mừng cho dân ngoại, và đó là nguồn sức mạnh cho tất cả mọi công việc ngài làm cách can đảm.
Ở đây, chúng ta cần lưu ý về danh xưng của Đức Giê-su : “Đức Ki-tô”, đó là một lời tuyên xưng đức tin dành cho một mình Chúa Giê-su mà thôi. Đối với chúng ta, nói “Đức Giê-su” hay “Đức Ki-tô” đều giống nhau sau hai ngàn năm đức tin Ki-tô giáo, đó là chuyện bình thường, nhưng những người đồng hương của thánh Phao-lô thì lại khác : “Giê-su” là tên chỉ một người nào đó, còn “Ki-tô” là tước hiệu, vì “Ki-tô” có nghĩa là “Mê-si-a”. Nói Đức Giê-su Ki-tô là ta xác nhận toàn bộ niềm tin Ki-tô giáo : Đức Giê-su Na-da-rét là Đấng Mê-si-a.
Thánh Phao-lô tiếp tục : “được dành riêng để loan báo Tin Mừng của Thiên Chúa”, kế hoạch cứu độ, ý định yêu thương của Người được hoàn tất nơi Đức Giê-su Ki-tô. Đó là điều mà thánh Phao-lô nói trong vài hàng của bức thư này. Trở lại bài đọc 2, “Tin Mừng ấy, xưa Người đã dùng các ngôn sứ của Người mà hứa trước trong Kinh Thánh.” Tôi tin chắc rằng không một ai có thể hiểu gì về Tin Mừng và toàn bộ Tân Ước nếu người ta không hiểu rõ Tân Ước : cả hai là một, không thể chia cắt được ! Ý định của Thiên Chúa đã có từ bình minh của thế giới,


và dần dần Thiên Chúa mặc khải cho dân Người qua lời rao giảng của các ngôn sứ.
2. Thánh Phao-lô nói : “Tin Mừng về Con của Người là Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta.” Đối với thánh Phao-lô, Chúa Giê-su Ki-tô luôn luôn là trung tâm kế hoạch của Thiên Chúa. Khi thánh Phao-lô nói về kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa trong thư Ê-phê-xô là từ đời đời và từ khởi thuỷ của thế giới, Thiên Chúa đã có kế hoạch tập họp toàn thể nhân loại hợp nhất nơi Đức Giê-su Ki-tô.
“Xét như một người phàm, Đức Giê-su Ki-tô xuất thân từ dòng dõi vua Đa-vít” : Đức Giê-su là người, là thành viên của dân Chúa chọn, dòng dõi vua Đa-vít, Người có đầy đủ các điều kiện để trở nên Đấng Mê-si-a. “Nhưng xét như Đấng đã từ cõi chết sống lại nhờ Thánh Thần, Người đã được đặt làm Con Thiên Chúa với tất cả quyền năng.” Theo truyền thống, tước hiệu “con Thiên Chúa” được trao ban cho mỗi vị Tân Vương lúc đăng quang ; đối với Đức Giê-su Ki-tô, đó là ngày phục sinh mà Thiên Chúa đã tấn phong Người làm Vua toàn thể nhân loại mới. Đối với thánh Phao-lô, sự phục sinh của Đức Ki-tô là một biến cố làm đảo lộn bộ mặt của thế giới.
Thánh Phao-lô không nói về cái chết của Đức Ki-tô, nhưng chỉ rao giảng về sự phục sinh của Người, vì đối với thánh Phao-lô, đó là tín điều thứ nhất của đức tin : “Nếu Đức Ki-tô không trỗi dậy, thì lời rao giảng của chúng tôi trống rỗng, và cả đức tin của anh em cũng trống rỗng” (1 Cr 15,14). Chính sự phục sinh của Đức Ki-tô mà thánh Phao-lô sắp rao giảng khắp nơi “để danh Người được rạng rỡ” như thánh Phao-lô đã nói. Ở đây, chúng ta lại tìm thấy kiểu nói tuyệt đẹp trong thư Phi-líp-phê : “Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu” (Pl 2,9). Chúng ta nghe chính danh xưng


Chúa vốn dành riêng cho Thiên Chúa, từ nay về sau được gán cho chính Đức Giê-su.
3. Một vấn đề khác “làm cho hết thảy các dân ngoại vâng phục Tin Mừng hầu danh Người được rạng rỡ”. Kiểu nói này ngày hôm nay không dễ được tất cả mọi người chấp nhận. Tuy nhiên, đối với thánh Phao-lô, vốn thấm nhuần Cựu Ước và những khám phá dần dần của con người về Kinh Thánh, từ “vâng phục” không phải là nô lệ, là hạ nhục ai, nhưng mang một ý nghĩa tích cực là tin tưởng lắng nghe Đấng chắc chắn sẽ đem lại sự bình an cho mình và sẵn sàng tuân theo những lời khuyên nhủ của Đấng ấy : đó là thái độ hiếu thảo tuyệt vời “làm cho hết thảy các dân ngoại vâng phục Tin Mừng”, nghĩa là loan báo Tin Mừng cho họ, để họ hiểu rằng tin tức mà họ nghe được là tốt lành, họ có thể đặt trọn niềm tin vào tin tốt đó và sẵn sàng mở tai để nghe lời yêu thương của Chúa Cha.
Thánh Phao-lô kết thúc bằng một lời chúc quen thuộc, một lời chúc tốt đẹp ta có thể gửi đến bất cứ ai : “Xin Thiên Chúa là Cha chúng ta, và xin Chúa Giê-su Ki-tô ban cho anh em ân sủng và bình an.” Ở đây ta thấy thánh Phao-lô lấy lại lời chúc trong sách Dân số : “Nguyện Đức Chúa chúc lành và gìn giữ anh em. Nguyện Đức Chúa tươi nét mặt nhìn đến anh em và rủ lòng thương anh em. Nguyện Đức Chúa ghé mắt nhìn và ban bình an cho anh em” (Ds 6,24-26).
4. Bài Tin Mừng : Mt 1,18-24 : Một người Cha vâng phục
Như Thiên Chúa đã mặc khải cho bà Ma-ri-a, Người cũng mặc khải cho ông Giu-se kế hoạch cứu độ của Người. Thiên Chúa làm thế qua những giấc mơ. Trong Kinh Thánh và nơi các dân tộc cổ xưa, các giấc mơ được coi như một cách để Thiên Chúa cho biết thánh ý của Người.


Ông Giu-se vô cùng hoang mang vì cái thai kỳ lạ của bà Ma-ri-a. Ông Giu-se không muốn “tố giác bà”, nên mới định tâm “bỏ bà cách kín đáo” (Mt 1,19).
Trong giấc mơ đầu tiên, một thiên thần đã giúp ông Giu-se giải quyết tình thế lưỡng nan rất hệ trọng của mình : “Đừng ngại đón bà Ma-ri-a vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng của Chúa Thánh Thần. Bà sẽ sinh con trai và ông phải đặt tên cho con trẻ là Giê-su, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ” (Mt 1,20-21). Ông Giu-se hưởng ứng ngay lập tức : “Khi tỉnh giấc, ông Giu-se làm như sứ thần Chúa dạy” (Mt 1,24). Sự vâng phục đã giúp ông Giu-se có thể vượt qua những khó khăn của mình và cứu được bà Ma-ri-a.
Trong giấc mơ thứ hai, thiên thần bảo ông Giu-se : “Hãy trỗi dậy, hãy đem Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Ai-cập, và cứ ở đó cho đến khi tôi báo lại ; vì vua Hê-rô-đê sắp tìm giết Hài Nhi đấy !” (Mt 2,13), ông Giu-se đã vâng lời không chần chừ, dù phải bao gian nan vất vả : “Ông trỗi dậy, và đang đêm, đưa Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Ai-cập, và ở lại đó cho đến khi vua Hê-rô-đê băng hà” (Mt 2,14-15).
Ở Ai-cập, ông Giu-se kiên nhẫn và tin tưởng đợi chờ thiên thần báo lại để có thể an toàn trở về quê hương. Trong giấc mơ thứ ba, thiên thần báo rằng những kẻ tìm giết Con Trẻ đã chết và ông Giu-se hãy trỗi dậy, đưa Con Trẻ và mẹ Người trở về Ít-ra-en (x. Mt 2,19-20). Một lần nữa, ông Giu-se mau mắn tuân hành. “Ông trỗi dậy, đưa Hài Nhi và mẹ Người trở về đất Ít-ra-en” (Mt 2,21).
Trên hành trình về quê ấy, “Giu-se được báo mộng và biết Ác-khê-lao đã kế vị vua cha là Hê-rô-đê, cai trị miền Giu-đê, nên ông không dám về đó” – đây là giấc mơ lần thứ tư – “ông lui về miền Ga-li-lê, đến ở tại một thành kia gọi là Na-da-rét” (Mt 2,22-23).


Thánh Lu-ca kể cho chúng ta rằng ông Giu-se đã đi một hành trình dài và khó khăn từ Na-da-rét đến Bê-lem để khai sổ tại quê quán của mình trong cuộc điều tra dân số của hoàng đế Xê-da-rê Au-gút-tô. Trẻ Giê-su được sinh ra ở đấy (x. Lc 2,7), và cuộc chào đời này đã được đăng ký vào sổ sách của đế quốc giống như mọi đứa trẻ khác. Thánh Lu-ca đặc biệt lưu ý chúng ta rằng cha mẹ của Đức Giê-su đã tuân thủ mọi quy định của Lề Luật : việc cắt bì cho Đức Giê-su, việc thanh tẩy bà Ma-ri-a sau khi sinh con, việc dâng con trai đầu lòng cho Thiên Chúa (x. 2,21-24).
Trong mọi hoàn cảnh, ông Giu-se đã tuyên bố tiếng “fiat
3.    xin vâng” của mình, giống như tiếng “fiat - xin vâng” của bà Ma-ri-a trong biến cố Truyền Tin và của Đức Giê-su trong Vườn Cây Dầu.
Trong vai trò người đứng đầu gia đình, ông Giu-se đã dạy cho Đức Giê-su biết vâng lời cha mẹ (x. Lc 2,51) theo như điều răn Chúa dạy (x. Xh 20,12).
Suốt những năm ẩn dật của mình ở Na-da-rét, Đức Giê-su đã học ở trường của ông Giu-se để biết làm theo thánh ý Chúa Cha. Thánh ý của Chúa Cha là lương thực hằng ngày của Người (x. Ga 4,34). Ngay cả vào thời khắc khó khăn nhất trong cuộc đời, lúc ở Vườn Cây Dầu, Đức Giê-su vẫn chọn thi hành thánh ý Chúa Cha hơn là theo ý riêng mình, trở thành “vâng phục cho đến chết và chết trên thập giá” (Pl 2,8). Vì thế tác giả thư Híp-ri kết luận rằng Đức Giê-su “đã trải qua đau khổ để học cho biết thế nào là vâng phục” (5,8).
Tất cả những điều này cho thấy rõ rằng “thánh Giu-se đã được Thiên Chúa kêu gọi phục vụ cho con người và sứ mạng của Chúa Giê-su cách trực tiếp, qua việc thi hành chức phận làm cha của mình”, và bằng cách ấy, “khi thời gian viên mãn, ngài đã cộng tác vào mầu nhiệm Cứu Độ cao cả, và thật sự trở thành một thừa tác viên của ơn cứu độ”.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa, thánh Giu-se là người công chính, luôn tin tưởng vào Chúa là Đấng nhân hậu từ bi, là Cha giàu lòng thương xót. Người luôn đáp “Xin Vâng” theo thánh ý Chúa khi sứ thần Chúa báo mộng cho Người. Xin cho tất cả chúng con biết noi gương thánh Giu-se trong cuộc sống đức tin thường ngày.
Tự vấn :
Chúng ta có đáp “Xin Vâng” trong mọi tình huống của cuộc sống không ?
A.    BÀI ĐỌC THÊM

3.    “Nguồn gốc khác” (Mgr. L. Daloz, trong “Le Règne des cieux s’est approché”, Desclée de Brouwer, tr. 16-17). “Đây là gốc tích của Đức Giê-su …” Sau quyển sách gốc tích của Đức Giê-su Ki-tô, thì đây là một nguồn gốc khác được trình bày cho chúng ta. Đức Giê-su, bám rễ sâu vào một lịch sử, trong một dân tộc, cũng là Đấng đến từ nơi khác. Gia-cóp sinh Giu-se, chồng của bà Ma-ri-a, từ nơi bà, Đức Giê-su sinh ra … Thánh Giu-se đã đưa đứa trẻ sắp sinh nhập vào trong dòng dõi tổ tiên mình một cách hợp pháp ; nhưng Hài Nhi này lại đến từ một Đấng khác : đứa con bà sinh ra là bởi Chúa Thánh Thần. Thánh Giu-se, người công chính, sẽ đặt tên cho Hài Nhi : bà sẽ sinh một con trai mà ông sẽ đặt tên là Giê-su. Tên gọi có ý nghĩa, cho biết Hài Nhi không phải là hậu duệ như những người khác, đóng kín trong những giới hạn của khả năng loài người : bởi chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi. Ai có thể giải thoát khỏi tội lỗi, nếu không phải là Thiên Chúa ? Lời tiên tri nhận lấy đầy đủ tất cả ý nghĩa : người ta sẽ gọi tên Người là Em-ma-nu-en, nghĩa là Thiên-Chúa-ở-cùng- chúng-ta. Đức Giê-su ghi tên vào một gia phả, nhưng Người làm nổ tung gia phả đó. Chính Thiên Chúa bước vào trong thế giới loài người chúng ta.
Tuy nhiên, vai trò của thánh Giu-se không phải là tầm thường. Khoa tâm lý hiện đại đã tỏ cho chúng ta biết tầm quan trọng của hình ảnh người cha đối với việc tạo thành nhân cách của Hài Nhi. Chính nhờ gần gũi với thánh Giu-se mà Đức Giê-su sẽ học biết người cha là gì. Chính nơi ông mà Người sẽ nhìn thấy phản ánh nhân loại tình phụ tử của Thiên Chúa. Biết nói với chúng ta rõ ràng về Cha của Người, phải chăng khi đã nhìn thấy thánh Giu-se mà Người đã có kinh nghiệm về sự âu yếm của cha : “Có người nào trong anh em, khi con mình xin cái bánh, mà lại cho nó hòn đá ? Hoặc nó xin con cá, mà lại cho nó con rắn ?” (Mt 7,9-10). Người đã học biết rằng, các người cha dưới đất biết cho con cái mình những sự tốt lành. Người đã học biết điều đó nơi thánh Giu-se. Chúng ta đừng quên rằng, những đoạn văn đến “sau” : sau một sự khám phá lâu dài về con người Đức Giê-su, con của bác thợ mộc, sau những lời nói và những dấu chỉ đã làm nảy sinh đức tin trong tâm hồn các môn đệ, sau những hồ nghi và sau cùng, sau một sự chắc chắn về sự phục sinh : phải nhìn nhận rằng, Đức Giê-su đã là một Đấng khác, để chúng ta có thể hiểu rằng Người đã từ nơi khác mà đến. Trong lịch sử nhân loại, nguồn gốc thần thiêng của Đức Giê-su là một sự kiện không ai để ý đến, không ngừng được tranh cãi và chối bỏ : Đó không phải là con bác thợ mộc sao ? Nhờ Thánh Thần, Thiên Chúa dẫn nhập cái mới vào trong thế giới chúng ta. Người đã trở thành Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta. Chỉ nguyên việc đón nhận cái mới là chính Đức Giê-su, cái mới mà Người đem đến cho cuộc đời chúng ta, có thể dẫn ta đến chấp nhận điều bất ngờ trong việc Người sinh ra. Chính kết quả của việc khám phá này mà Mát-thêu muốn gửi gắm cho chúng ta. Chúng ta không thể chấp nhận nguồn gốc của Đức Giê-su bởi tác động của Chúa Thánh Thần mà không nhìn nhận là Người đến từ Thiên Chúa. Chính khi đã nhìn biết Người, chính khi đã hiểu rằng, Người là Đấng khác, thì chúng ta mới có thể đón nhận mầu nhiệm Giáng Sinh của Người.”
3.    “Tính cách làm cha của thánh Giu-se  đối  với Đức Giê-su chắc chắn quan trọng hơn như người ta vẫn thường nghĩ” (Jean-Noël Bezançon, trong “Jésus Christ” (“Petit encyclopédie moderne du christianisme”), Desclée de Brouwer, tr. 43-45).
Tính cách làm cha của thánh Giu-se đối với Đức Giê-su quan trọng hơn ta vẫn thường nghĩ. Để gọi tên Đấng mà tất cả mọi người xưng là Thiên Chúa, để chỉ định sự hiện diện rất gần gũi mà từ đó Người lãnh nhận tất cả mọi sự, hữu thể mà Người luôn luôn ý thức chỉ là một với Người, Đức Giê-su tự động dùng lại danh xưng mà Người âu yếm gọi thánh Giu-se : “Cha, Ba, Bố”. Và khi phải giải thích sự thật gây kinh ngạc này với Thiên Chúa của Ít-ra-en, Thiên Chúa mà Người đòi tiếp tục công trình sáng tạo, Đức Giê-su lại dùng những từ ngữ đơn giản nhất khi còn tập tành ở Na-da-rét, trong xưởng của bác thợ mộc Giu-se : “Cho đến nay, Cha tôi vẫn làm việc, thì tôi cũng làm việc … vì điều gì Chúa Cha làm, thì người Con cũng làm như vậy. Quả thật, Chúa Cha yêu người Con và cho người Con thấy mọi điều mình làm, lại sẽ còn cho người Con thấy những việc lớn lao hơn nữa, khiến chính các ông cũng phải kinh ngạc” (Ga 5,17-20). Chính nơi những từ ngữ thường ngày, những từ ngữ mà Người dùng để diễn tả cuộc đời Người, những mối liên hệ của Người, những tình cảm của Người, mà Đức Giê-su muốn nói đối với Người, Thiên Chúa là ai. Làm sao không tìm thấy trong tình cảm của cha mẹ Người những từ ngữ đúng đắn nhất để nói cho chúng ta biết mối liên hệ tuyệt đối duy nhất vốn vẫn hiện diện trong con tim Người : “Tôi và Chúa Cha là một” (Ga 10,30).

 

3. Suy niệm (Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)

Sợi chỉ đỏ:

- Ngôn sứ Isaia báo cho vua Achaz về một nhân vật mệnh danh là Emmanuel (Bài đọc I)

- Tv 23 bày tỏ niềm tin tưởng Thiên Chúa sẽ đến như một vị Vua vinh hiển (Đáp ca)

- Đức Giêsu chính là Emmanuel mà Isaia đã tiên báo (Tin Mừng)

- Thánh Phaolô khẳng định Đức Giêsu thực hiện những lời tiên tri xưa (Bài đọc II)

I. DẪN VÀO THÁNH LỄ

Trong suốt Mùa Vọng, chúng ta mong chờ Đức Giêsu đến. Nhưng chúng ta mong chờ Ngài mang gì đến cho chúng ta: Tiền bạc chăng ? Thành công chăng ? Sức khoẻ chăng ?

Lời Chúa hôm nay trả lời rằng: Ngài mang đến cho chúng ta chính bản thân Ngài, bởi vì Ngài là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Đó là điều quý báu nhất và bao gồm tất cả mọi điều báu.

Trong Thánh lễ này, chúng ta hãy nguyện “ở với” Chúa cũng như Ngài đã “ở với” chúng ta.

II. GỢI Ý SÁM HỐI

- Đức Giêsu đã bỏ trời xuống thế để ở với loài người chúng ta. Nhưng lắm khi chúng ta quên mất Ngài, không hề nhớ tới Ngài.

- Đức Giêsu ngự trong Nhà Tạm để chúng ta dễ đến với Ngài. Nhưng rất ít khi chúng ta đến đó để gặp Ngài.

- Chúng ta không “cùng ăn, cùng ở, cùng làm” với Đức Giêsu trong cuộc sống hằng ngày.

III. LỜI CHÚA

1. Bài đọc I (Is 7, 10-14):

Khi ấy vương quốc Giuđa đang bị đế quốc Assyria đe dọa. Ngôn sứ Isaia khuyên vua Achaz đừng sợ, hãy trông cậy vào sự trợ giúp của Thiên Chúa. Nhưng vua Achaz hoài nghi. Để khuyến khích nhà vua thêm tin tưởng, Isaia cho nhà vua một dấu chỉ: “Này đây một phụ nữ sẽ thụ thai, sinh một con trai, và tên con trẻ sẽ là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở với chúng ta”.

Lời tiên tri này trước tiên ứng vào hoàn cảnh của vua Achaz: Quả thực sau đó hoàng hậu vợ vua Achaz (“phụ nữ”) đã thụ thai và sinh cho nhà vua một thái tử. Việc sinh ra thái tử là dấu chỉ chứng minh rằng Thiên Chúa sẵn sàng phù hộ cho vua Achaz nếu ông thực lòng trông cậy nơi Ngài (“Thiên Chúa ở cùng chúng ta”).

Về sau người ta đã hiểu rộng hơn và coi đây là lời tiên tri về Đấng Messia sẽ đến. Người ta còn tin rằng Đấng Messia ấy sẽ do một trinh nữ sinh ra. Vì thế bản dịch 70 bằng tiếng hy lạp đã dùng chữ “trinh nữ” thay vì chữ “phụ nữ”.

2. Đáp ca (Tv 23):

Tv 23 được dùng trong những cuộc hành hương lên đền thờ Giêrusalem. Người ta ý thức rằng Thiên Chúa chính là Vua vinh hiển ; và chỉ những ai có bàn tay vô tội và tâm hồn trong sạch mới xứng đáng đến trước nhan Ngài.

Quan niệm này đúng. Nhưng đến thời Tân Ước (như bài Tin Mừng sẽ cho ta thấy), Thiên Chúa sẽ ưu ái loài người đến nỗi bỏ qua đòi hỏi trên: chẳng những không đòi những người muốn đến với Ngài phải có tay sạch lòng thanh, Ngài còn hạ cố xuống với loài người để thành Emmanuel, Thiên Chúa ở cùng chúng ta.

3. Tin Mừng (Mt 1, 18-24):

Đức Giêsu Ngôi Hai Thiên Chúa đã sinh ra, làm một con người như mọi người: có mẹ là một người nữ mang tên Maria, cha là một bác thợ mộc tên là Giuse.

Nhưng thiên thần Gabriel cho thánh Giuse biết những đặc tính thiêng linh của Đức Giêsu: Ngài được thụ thai là “bởi phép Chúa Thánh Thần”, Ngài đến trần gian là “để cứu dân mình khỏi tội”.

Thánh Matthêu hiểu rằng việc này làm ứng nghiệm lời tiên tri của ngôn sứ Isaia: Đức Giêsu chính là Emmanuel, Thiên Chúa ở cùng chúng ta.

4. Bài đọc II (Rm 1, 1-7):

Thánh Phaolô muốn tín hữu Rôma hiểu rõ về Đức Giêsu: Tuy Ngài đã sinh ra “theo huyết nhục”, nhưng nguồn gốc của Ngài rất cao sang vì Ngài “bởi dòng Đavít”, “đã được tiền định là Con Thiên Chúa”, và “đã sống lại từ cõi chết”.

Từ ý thức đó, Thánh Phaolô khuyên các tín hữu hãy sung sướng vì được thuộc về một Đấng cao sang như thế: “Đó chính là Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta”, đồng thời cũng hãy sung sướng với ơn gọi của mình: “Anh em là những người mà Chúa Giêsu Kitô đã kêu gọi”.

V. GỢI Ý GIẢNG

1. Chỉ cần một so sánh tầm thường

Đức Giêsu là Emmanuel, Thiên Chúa ở cùng chúng ta.

Chỉ cần một so sánh rất tầm thường, chúng ta sẽ thấy đó là một ơn rất to lớn mà Thiên Chúa ban cho chúng ta:

Tôi có một người bạn vừa tốt vừa đa tài đa năng. Mỗi khi có chuyện gì cần, tôi gọi thì anh đến và anh giúp tôi giải quyết rất tốt đẹp. Tôi sung sướng lắm. Nhưng nhiều khi tôi đang cần mà anh lại đang đi vắng xa nên không giúp gì cho tôi được. Khi đó tôi ao ước: phải chi người bạn ấy luôn ở với tôi!

Chúa Giêsu hơn người bạn ấy rất nhiều: Ngài không chỉ là một con người mà còn là Thiên Chúa. Ngài không chỉ đa tài đa năng mà còn là toàn tài toàn năng. Ngài nói “Này Ta ở cùng chúng con mọi ngày cho đến tận thế”. Ngài đúng là Emmanuel, Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Còn gì quý hơn!

2. Thế nào là một Tin Mừng ?

Một tin chỉ là Tin Mừng khi nó đáp ứng một ước mong mà người ta chờ đợi. Thí dụ chén cơm là tin mừng cho người đang đói, mùa gặt bội thu là tin mừng cho người nông dân đã khổ công cấy cày. Nếu không ước mong đợi chờ thì chẳng có tin mừng: chén cơm không phải là tin mừng cho người đã no, mùa gặt cũng chẳng là tin mừng cho người không làm ruộng.

Thánh Phaolô nói với tín hữu Rôma rằng ngài mang đến cho họ một Tin Mừng, đó là Thiên Chúa đã ban Con của Ngài cho loài người. Và tín hữu Rôma đã vui mừng vì họ có được một Đức Chúa cao cả quyền năng hơn các thần thánh nhan nhãn trong các đền thờ ở Rôma.

Lẽ ra sống trong Mùa Vọng thì phải mong chờ Chúa. Nếu ta không mong chờ Chúa thì việc Chúa Giáng sinh không là Tin Mừng cho ta gì cả.

3. Chúa ở cùng chúng con

Lạy Chúa, tên Chúa là Emmanuel, Chúa ở cùng chúng con.

Nhưng đã có biết bao người lấy danh thánh Chúa khắc vào dây lưng, hùng hùng hổ hổ xông ra trận để chém giết anh em đồng loại! Biết bao người đã đi tàn sát nhân danh Chúa, tuy họ không xâm tên Chúa vào ngực hay khắc vào dây nịt.

Chúa ở với chúng con để kéo chúng con ra khỏi tội lỗi, chứ không phải làm cớ cho chúng con bênh vực mình, bênh vực những hành vi tội lỗi của mình.

Chúa ở với chúng con để giúp chúng con vượt qua những chướng ngại trên con đường đi tìm công lý và tình huynh đệ, chứ không phải để dẫn chúng con đến những quần đảo thoát ly.

Chúa hãy ở với chúng con những khi vì sợ hãi, chúng con ngừng bước hay lui bước. Chúa hãy ở với chúng con khi vì lơ đễnh chúng con đi lạc đàng chính nẻo ngay.

Thân lạy Emmanuel, xin Chúa hãy luôn ở cùng chúng con! (Trích Công giáo và Dân tộc, số đặc biệt giáng sinh 1998)

4. Chuẩn bị Lễ Giáng sinh

Ngày nay thói quen mừng lễ Giáng sinh có thể nói là rất phổ biến: hầu hết mọi người trên thế giới, dù là người có đạo hay không có đạo, cũng đều quen mừng lễ Giáng sinh. Tuy nhiên, hầu như ai ai cũng coi đây là một dịp lễ vui, có nhiều hoa đèn, nhiều tiếng thánh ca. Trong dịp lễ Giáng sinh người ta cũng sáng tác nhiều tiêu phẩm văn nghệ rất cảm động nhưng qua đó ta thấy được khía cạnh mỉa mai là lễ Giáng sinh đã không được mừng đúng ý nghĩa. Có một tiểu phẩm kể chuyện một em bé gái nghèo, đêm Giáng sinh phải co ro lặn lội trong sương tuyết để bán từng hộp que diêm, trong khi đó thì xa xa vọng lại tiếng hát thánh ca réo rắt ; một tiểu phẩm khác kể chuyện một tên ăn trộm coi lễ Giáng sinh là dịp tốt để hành nghề, nó biết đêm đó nhà giàu nào cũng có nhiều bánh trái, cho nên nó đợi đến lúc người ta di dự lễ ở nhà thờ để lẻn vào ăn trộm, và xa xa vọng lại cũng những hồi chuông giáng sinh rộn rã.

Cũng có một tác phẩm tuy không nói về lễ Giáng sinh nhưng cũng mang cùng một ý nghĩa. Đây là một chuyện phim tưởng tượng. Đạo diễn tưởng tượng có một Đức Giáo hoàng vì chán cảnh lễ nghi rườm rà trong Tòa Thánh Vatican nên nhân một dịp đi lạc khỏi Tòa Thánh, đã đi luôn vào sống ở một ngôi làng nghèo. Làng này đang bị bệnh dịch hoành hành nên bị cắt đứt mọi liên lạc với bên ngoài, lương thực khan hiếm. Trong làng có một cái cối dùng sức gió để cung cấp nước, nhưng cối gió đã hư và không ai sửa. Nếp sống quá khổ cực khiến người ta không đến nhà thờ nữa, nhà thờ bị hoang phế, và chính vị Linh mục coi sóc nhà thờ đó cũng chán nản hồi tục đi làm nghề chăn cừu. Đức Giáo hoàng đã cùng với dân làng đi moi đống rác, tiếp xúc với những trẻ em lang thang bụi đời, và động viên người ta cùng Ngài sửa lại cái cối xay nước. Sau một thời gian làm việc vất vả với rất nhiều khó khăn, cái cối xay gió ấy đã được sửa chữa và hoạt động lại. Cho tới lúc đó dân làng mới biết Ngài chính là Giáo hoàng. Và Ngài giã từ họ trở về Tòa Thánh. Cuốn phim kết thúc với cảnh Đức Giáo hoàng chủ tọa một Thánh lễ có rất đông người tham dự, đặc biệt trong số đó có dân chúng của cái làng nghèo khổ kia và cả vị Linh mục nữa, vị Linh mục này đã trở về với đoàn chiên giáo dân của mình. Chắc chúng ta hiểu được ngụ ý của đạo diễn: Nếu giáo hội chỉ thu mình trong các lễ nghi ở nhà thờ thì dần dần Giáo hội sẽ xa lìa quần chúng và quần chúng cũng xa lìa Giáo hội. Còn Giáo hội dấn thân phục vụ những nhu cầu thiết thực của quần chúng thì quần chúng sẽ đến vây quanh Giáo hội.

Ngôi Hai Thiên Chúa giáng sinh là Emmanuel, nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”. Giáo Hội cũng phải là Emmanuel. Và mỗi tín hữu cũng phải là Emmanuel.

 

4. Suy niệm (Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.)

EMMANUEL

Ông Giuse là nhân vật nổi bật trong bài Tin Mừng.

Cuộc hôn nhân của ông với Maria gặp trục trặc lớn.

Ông đã làm đám hỏi với Maria,

chỉ chờ ngày đón Maria về chung sống.

Không rõ bởi đâu mà ông biết Maria đang mang thai,

khi chưa về chung sống với ông như vợ chồng.

Đây là tin sét đánh, làm ông choáng váng,

vì ông biết rõ vị hôn thê của ông là người đức hạnh.

Ông tự hỏi phải làm gì bây giờ?

Là người công chính, Giuse phải giữ Luật Môse.

Ông không thể lấy Maria về làm vợ nữa,

và cũng không muốn công khai tố giác Maria

để Maria phải chịu hình phạt (Đnl 22,23-24).

Lòng nhân của ông đưa ông tới quyết định này,

đó là chia tay Maria một cách âm thầm kín đáo,

để Maria được tự do định đoạt đời mình.

Nhưng Thiên Chúa lại nghĩ khác.

Ngài cần Maria để làm mẹ cho Con Một của mình,

và Ngài cũng cần một người cha nuôi cho Người Con.

Thiên Chúa cần Giuse để làm nóc cho ngôi nhà,

và để Con Ngài thuộc dòng tộc Đavít (Mt 1,20).

Thiên sứ của Chúa được sai đến gặp Giuse khi ông ngủ.

Thiên sứ vén mở bí mật mà Giuse không biết hỏi ai.

Thai nhi trong bụng của Maria là do Thánh Thần.

Đây sẽ là người cứu dân mình khỏi tội lỗi của họ,

là món quà bất ngờ Thiên Chúa tặng ban,

là điều vượt quá mọi chờ mong của Dân Chúa.

Thiên sứ xin Giuse đổi ý, xin ông đừng chia tay,

nhưng hãy rước dâu và làm đám cưới với Maria.

Hãy nhận thai nhi trong bụng mẹ làm con của mình,

bằng cách đặt tên cho con trẻ là Giêsu (Mt 1,20-21).

Hãy làm chồng của Maria và làm cha đứa trẻ.

Chắc Giuse không hiểu hết những lời thiên sứ nói.

Làm sao ông hiểu được chuyện chưa xảy ra bao giờ,

Ông thấy mình như được kéo vào một mầu nhiệm,

và được mời gọi tích cực tham dự vào mầu nhiệm ấy.

Những điều thiên sứ nói đảo lộn mọi dự tính của ông.

Người phụ nữ ông muốn lấy làm vợ, lại là người của Chúa.

Thai nhi không phải của ông, ông lại phải coi như con.

Bây giờ ông được mời gọi đón nhận cả mẹ lẫn con,

thay vì viết giấy chia tay trước mặt hai nhân chứng.

“Đừng sợ!” thiên sứ trấn an ông.

Kế hoạch của Thiên Chúa thì vượt quá mọi dự tính.

Thiên Chúa cần sự ưng thuận của Giuse, như của Maria.

Khi tỉnh giấc, Giuse đã nghe lời nhắn nhủ của thiên sứ.

Ông chẳng nói gì, chỉ làm điều thiên sứ dạy.

Chẳng bao lâu sau, ông đã đón Maria về nhà cha ông,

đã đặt tên cho cậu con trai là Giêsu.

Con Thiên Chúa được sống trong mái nhà có cha có mẹ.

“Một trinh nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai,

người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel” (LXX, Is 7,14).

Ngôn sứ Isaia đã tiên báo về sự sinh ra của một hoàng tử,

dưới thời vua A-khát, hơn 700 năm trước công nguyên.

Ngôn sứ này không ngờ rằng lời sấm của mình

sau đó sẽ được ứng nghiệm một cách vượt bực.

Trinh nữ Maria sẽ thụ thai và sinh con trai.

Ngài có tên là Giêsu, nghĩa là Thiên Chúa cứu độ,

là Emmanuel, nghĩa là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta.

Giêsu không chỉ là con vua, mà là Con Một Thiên Chúa.

Kế hoạch của Thiên Chúa thường làm chúng ta bối rối.

Cả Maria lẫn Giuse đều ngỡ ngàng khi được Chúa ngỏ lời.

Chấp nhận xin vâng là để cho đời mình bị xáo trộn.

Chẳng thể xin vâng nếu không buông bỏ hoàn toàn.

Nếu muốn sinh Chúa Giêsu cho thế giới hôm nay,

ta phải trải qua kinh nghiệm của Maria và Giuse:

liều lĩnh buông bỏ và can đảm tiến bước,

vì biết Thiên Chúa làm được mọi sự (Lc 1,37).

LỜI NGUYỆN

Lạy Chúa Giêsu,

Chúa đã nói: “Mẹ của tôi là những ai

thi hành ý muốn của Cha tôi, Đấng ngự trên trời.”

 Như thế ai trong chúng con

cũng được mời gọi để trở nên mẹ của Chúa.

Mẹ Maria đã cưu mang Chúa trong thân xác và trái tim,

chúng con cũng phải cưu mang Chúa trong tâm hồn,

để Chúa từ từ lớn lên trong chúng con,

qua những hy sinh nhọc nhằn từ bỏ.

Mẹ Maria đã sinh ra Chúa trên đất Israel,

dưỡng nuôi Chúa trưởng thành giữa bao thiếu thốn.

Chúng con cũng phải sinh ra Chúa một cách thiêng liêng

 trong tim con người hôm nay, ở mọi nơi chúng con sống,

để sự hiện diện của Chúa tràn ngập khắp nơi.

Lạy Chúa Giêsu,

Chúa đã đến làm người, cư ngụ trên trái đất này

để đem lại ánh sáng và bình an, tình yêu và công lý.

Chúa muốn Mầu nhiệm Nhập Thể kéo dài mãi,

ngày nào thế giới còn chiến tranh, hận thù, bất công.

Chúa muốn chúng con sinh ra Chúa

nơi những ngõ ngách tối tăm,

nơi những xung đột đẫm máu,

nơi những người nghèo, bị hất hủi bỏ rơi.

Để chỗ nào có chúng con,

 nơi đó có nụ cười tươi tắn, có tình huynh đệ sẻ chia,

 có sự cảm thông tha thứ.

 Nhưng trước hết, lạy Chúa Giêsu,

 xin hãy sinh ra trong lòng chúng con mỗi ngày. Amen.

 

5. Suy niệm (Lm. Nguyễn Vinh Sơn, SCJ)

Câu chuyện

Tổ phụ Giuse trong Cựu ước mơ thấy bó lúa của các anh em cúi xuống thần phục bó lúa của mình; và trong một giấc mơ khác ông thấy mặt trời, mặt trăng, và 11 ngôi sao cúi mình trước mặt ông (x. St 37,5-9) ông đã kể lại với anh em và bị họ chế nhạo là “kẻ mơ màng”.Giấc mơ của Giuse là mạc khải của Thiên Chúa về tương lai: Giuse là người được Thiên Chúa tuyển chọn, trở thành tể tướng của nước Ai Cập, để cứu nước Ai Cập và gia đình của ông khỏi nạn đói. Bản thân Giuse là người công chính, luôn biết kính sợ Chúa, nên tâm hồn nhạy cảm dễ đón nhận mặc khải của Thiên Chúa. Ngoài ra, ông còn giải mã được những giấc mơ của người khác (x. St 40,1-20), đặc biệt hơn cho chính vua Ai Cập (x. St 41,1-36), sự giải mã những giấc mơ này là một phần của con đường Thiên ý: ông sẽ trở nên tể tướng bao bọc sự sống còn của cả dân tộc Ai Cập và gia đình ông. Chính ông đã nên hình ảnh báo trước về Giuse thời Tân ước.

Suy niệm (Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)

Giuse thời Tân ước được báo mộng trong giấc mơ về chương trình của Thiên Chúa được thực hiện qua cuộc hôn nhân giữa ông và Maria, việc nàng có thai không phải ý của phàm nhân nhưng dưới tác động của Thiên Chúa. Vì thế ông đã đón Maria về nhà mình theo sự báo mộng của Thiên thần thay vì có ý định ruồng bỏ nàng lúc phát hiện người bạn đời có thai (không phải của mình). Giấc mơ của Giuse đã thành hiện thực bởi sự tín trung vào Thiên Chúa với báo mộng về lời phán truyền của Ngôn sứ Isaia về Đấng Thiên Sai sẽ thành hiện thực ở nơi gia đình ông (x. Is 7,14-16). Chính con trẻ này trở nên ơn cứu độ và bao bọc cho cả nhân loại.

Sự huyền bí về giấc mơ của Giuse đưa chúng ta suy tư về hành trình của Thiên ý trong cuộc đời, mỗi người đi từ giấc mộng của niềm tin mà mỗi chúng ta đều mơ thấy qua Bí tích Rửa tội đến hiện thực của hôm nay và ngày mai: Chúng ta trở nên con Thiên Chúa và sống niềm tin chờ đợi để chính Ngài đón chúng ta vào Thiên quốc trong ngày Ngài quang lâm. Đó là giấc mơ của hôm nay đang sống trong chờ đợi, vào tương lai nơi Thiên Chúa hằng sống sẽ đến đón mọi người. Giấc mơ của Mùa Vọng đang được thực hiện trong bình an Giáng sinh, ngày Chúa giáng trần của hôm nay khi chúng ta cử hành kỷ niệm biến cố ấy và của ngày mai được Thiên Chúa đón rước vào vương quốc Ngài.Giấc mơ của Giuse - cha nuôi của Chúa Giêsu gợi cho chúng ta lòng tin tưởng vào Chúa quan phòng và sống vững tin chờ đợi: Giuse luôn sống trong thánh ý của Thiên Chúa. Ông luôn trung tín với Thiên ý dù sự việc diễn ra thật khó hiểu, đôi lúc không thể tin được như: Con Thiên Chúa Giáng sinh trong khó nghèo, chính Con Vua Trời lại trốn tránh dưới cơn bách hại của người phàm... Nhưng Giuse vẫn đi trong thánh ý và bước theo niềm tin vào lời báo trong mộng. Ông trung tín vào Thiên ý khi luôn săn sóc, bảo vệ gia đình Thánh gia: Con Thiên Chúa và Mẹ Người. Sự trung tín trong thánh ý đã khiến Giuse trở nên nhân vật tiêu biểu cho Mùa Vọng của mọi thời. Vì thế giấc mộng mà ông thị kiến, trở thành hiện thực không chỉ cho niềm ngóng trông của ông mà cho cả nhân loại như tên con trẻ “Emmanuel - Thiên Chúa ở cùng chúng ta”.Trong giấc mộng của Mùa Vọng, chúng ta được chiêm ngắm hình ảnh tương lai vào Đấng Emmanuel. Vì thế chúng ta không cảm thấy cô đơn, chán nản, thất vọng, bi quan trong đau khổ, vì được nhìn thấy trong giấc mộng Thiên ý: Đức Kitô - Đấng Emmanuel đang đi cùng với chúng ta, để biến những đau khổ của nhân loại thành một ý nghĩa cứu độ trên thập giá.

Chúng ta vui vì giấc mộng của Mùa Vọng sẽ được thành hiện thực. Ước gì tôi và bạn vẫn luôn tin và bước theo Chúa như Giuse bước đi từ giấc mộng đến hiện thực...

Ý lực sống

“Này đây một trinh nữ sẽ mang thai và hạ sinh một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (Is 7,14-16; Mt 1,23).

 

5. Suy niệm (song ngữ)

4th Sunday of Advent
Reading I: Isaiah 7:10-14
Reading II: Romans 1:1-7
Chúa Nhật 4 Mùa Vọng
Bài đọc I: Isaia 7:10-14
Bài đọc II: Rôma 1:1-7

Gospel
Matthew 1:18-24

18 Now this is how the birth of Jesus Christ came about. When his mother Mary was betrothed to Joseph, but before they lived together, she was found with child through the holy Spirit.

19 Joseph her husband, since he was a righteous man, yet unwilling to expose her to shame, decided to divorce her quietly.

20 Such was his intention when, behold, the angel of the Lord appeared to him in a dream and said, “Joseph, son of David, do not be afraid to take Mary your wife into your home. For it is through the holy Spirit that this child has been conceived in her.

21 She will bear a son and you are to name him Jesus, because he will save his people from their sins.”

22 All this took place to fulfill what the Lord had said through the prophet:

23 “Behold, the virgin shall be with child and bear a son, and they shall name him Emmanuel,” which means “God is with us.”

24 When Joseph awoke, he did as the angel of the Lord had commanded him and took his wife into his home.

Phúc Âm

Mátthêu 1:18-24

18 Sau đây là gốc tích Đức Giêsu Kitô: bà Maria, mẹ Người, đã thành hôn với ông Giuse. Nhưng trước khi hai ông bà về chung sống, bà đã có thai do quyền năng Chúa Thánh Thần.

19 Ông Giuse, chồng bà, là người công chính và không muốn tố giác bà, nên mới định tâm bỏ bà cách kín đáo.

20 Ông đang toan tính như vậy, thì kìa sứ thần Chúa hiện đến báo mộng cho ông rằng: “Này ông Giuse, là con cháu Đavít, đừng ngại đón bà Maria vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần.

21 Bà sẽ sinh con trai và ông phải đặt tên cho con trẻ là Giêsu, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ.”

22 Tất cả sự việc này đã xảy ra, là để ứng nghiệm lời xưa kia Chúa phán qua miệng ngôn sứ:

23 Này đây, Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuen, nghĩa là “Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta”.

24 Khi tỉnh giấc, ông Giu-se làm như sứ thần Chúa dạy và đón vợ về nhà.

Interesting Details

  • Context: The beginning of the Matthew (Mt 1:1-17) gives the “genesis” (birth record) of Jesus from King David. The reading today is the genesis from the Holy Spirit.
  • (v.18) Engagement was arranged by elders and had legal consequences for young people as early as twelve for girls and thirteen for boys. The girl stayed with her father until the marriage several years later. During that time if she had a sexual relationship with another man, both could be stoned to death (Dt 22:23-27). An alternative was for the husband to sign a divorce warrant with two witnesses and the wife could be free to marry someone else.
  • (v.20) “Angel of the Lord” is a familiar Old Testament figure who is the Lord or the Lord's messenger making known the will of God at crucial historical moments. “Dream” was another familiar way to find God's will, such as by Jacob and Joseph in Genesis (28:10-17 and 37:5-11).
  • While Luke's central character was Mary, Joseph here emerged as a major figure through his connection to King David, and his development from confusion to trust and enlightenment. Through this story Matthew declared that Jesus was the Son of God from conception.
  • Chi Tiết Hay

  • Phúc âm thánh Matthêu bắt đầu bằng một “genesis”. Chữ này có nhiều nghiã. Một nghĩa ở dây là gia phả. Một nghiã khác, như trong sách Sáng Thế Ký, có nghiã là khởi nguyên. Bài đọc hôm nay cũng là một khởi nguyên từ Chúa Thánh Thần.
  • (c.18) Thời đó những người lớn tuổi trong dân Do Thái sắp đặt chuyện đính hôn cho các cô từ 12 trở lên và các cậu từ 13 trở lên. Đính hôn có giá trị trước pháp luật. Sau khi đính hôn, các cô tiếp tục ở với bố mẹ thêm vài năm trước khi về nhà chồng. Trong thời gian chờ đợi đó, nếu cô ta ăn nằm với chàng nào khác thì cả hai có thể bị ném đá chết, theo sách Đệ Nhị Luật 22:23-27. Thay vì hình phạt đó, chàng rể tương lai có thể ký giấy ly dị trước hai nhân chứng và người phụ nữ đã đính hôn có quyền lấy người khác.
  • (c. 20) Trong Cựu Ước thiên thần Chúa hay hiện ra để cho biết ý Chúa trong những giây phút quan trọng trong lịch sử. Báo mộng là một cách khác mà Chúa dùng, như với Jacob và Giuse trong Sáng Thế Ký (28:10-17 và 37:5-11).
  • Phúc âm thánh Luca nhấn mạnh tới Đức Mẹ, còn Matthêu nói nhiều hơn về Giuse vì ông ta là giòng dõi vua Đa-vít, và vì ông ta trưởng thành dần trong Chúa, đi từ chỗ thắc mắc khó khăn tới chỗ tin tưởng và được Chúa soi sáng. Qua câu chuyện này, thánh Matthêu cho thấy Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa ngay từ đầu.
  • One Main Point

    Our King, Jesus, Son of God, comes to dwell among us through such simple, struggling and heroic figures as Joseph and Mary.

    Một Điểm Chính

    Chúa Giêsu, là Vua và là Con Thiên Chúa, xuống thế và sống giữa chúng ta, với những nhân vật đơn sơ nhưng anh hùng như Giuse và Maria.

    Reflections

  • What do I plan to do to prepare for the arrival of Jesus into my home and my soul this Christmas, coming in a few days?
  • Have I grown from confusion to trust and enlightenment like Joseph, or to despair and withdrawal?
  • How do I find the will of the Lord?
  • Suy Niệm

  • Tôi muốn sưả soạn tâm hồn tôi như thế nào để đón Chúa Hài Đồng?
  • Tôi có trưởng thành dần trong Chúa, đi tới chỗ tin tưởng và được soi sáng, hay rút lui dần vào chỗ thất vọng?
  • Làm sao tôi biết được ý Chúa?
  •  

    Tag:

    2025-12-21

    Lời Chúa Hôm Nay
    Giờ Kinh Chiều
    Lịch Công Giáo